Nội Dung
Hướng dẫn Soạn Bài 13 sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập một. Nội dung bài Soạn bài Bài toán dân số sgk Ngữ văn 8 tập 1 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, cảm thụ, phân tích, thuyết minh,… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 8 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn 8.
VĂN BẢN
BÀI TOÁN DÂN SỐ
Có người cho rằng: Bài toán dân số đã được đặt ra từ thời cổ đại. Lúc đầu tôi không tin điều này. Bởi vì vấn đề dân số và kế hoạch hóa gia đình chỉ mới được đặt ra vài chục năm nay. Còn nói từ thời cổ đại tức là chuyện của dăm bảy ngàn năm về trước. Độ chênh về thời gian ấy, ai mà tin được! Thế mà nghe xong câu chuyện này, qua một thoáng liên tưởng, tôi bỗng “sáng mắt ra”…
Đó là câu chuyện từ một bài toán cổ, kể về việc kén rể của nhà thông thái. Nhà thông thái nọ có một cô con gái rất đẹp. đến tuổi cập kê(1), cô gái cần tuyển một đấng phu quân(2). Rất nhiều chàng trai đến dự thi. Được làm rể nhà thông thái là điều vô cùng hấp dẫn, nhất là đối với con cái của những nhà giàu có. Nhà thông thái đưa ra một bàn cờ tướng gồm 64 ô. Ông yêu cầu các chàng trai thực hiện theo điều kiện sau: đặt 1 hạt thóc vào ô thứ nhất; ô thứ hai đặt 2 hạt thóc; và các ô tiếp theo số thóc cứ thế nhân đôi. Ai đủ số thóc theo yêu cầu của bài toán thì sẽ là chồng cô gái. Ban đầu ai cũng tưởng có gì mà không đủ. Nhưng rồi kết cục… không chàng trai nào đủ thóc để lấy được cô gái. Số thóc được tính ra theo bài toán cấp số nhân(3) ấy, nhiều đến mức có thể phủ khắp bề mặt trái đất này. Một con số kinh khủng biết nhường nào!
Bây giờ nếu ta tạm thời công nhận theo Kinh Thánh(4), khi khai thiên lập địa, trái đất này mới chỉ có hai người: một chàng A-đam và một nàng E-va; thì đến năm 1995 dân số toàn thế giới là 5,63 tỉ người. Theo bài toán cổ kia thì loài người phát triển theo cấp số nhân, công bội là 2, đã đạt đến ô thứ 30. Đó là với điều kiện một gia đình chỉ có hai con, và đã trừ đi tỉ lệ tử vong (kể cả dịch bệnh hoặc chiến tranh không quá 5%)
Trong thực tế, một người phụ nữ có khả năng sinh được rất nhiều con. Theo thống kê của Hội nghị Cai-rô (Ai Cập) họp ngày 5 – 9 – 1994 thì tỉ lệ sinh con của một phụ nữ Ấn Độ là 4,5; Nê-pan: 6,3; Ru-an-đa: 8,1; Tan-da-ni-a: 6,7; Ma-đa-gát-xca: 6,6… Tính chung toàn châu Phi là 5,8. Phụ nữ Việt Nam là 3,7. Như vậy phấn đấu để mỗi gia đình có một đến hai con là một chỉ tiêu rất khó khăn. Với tỉ lệ hàng năm tăng 1,73% như mười lăm năm trước và 1,57% năm 1990 thì dân số hành tinh của chúng ta năm 2015 sẽ là hơn 7 tỉ người. Theo bài toán cổ trên, số dân ấy đã mon men sang ô thứ 31 của bàn cờ.
Đừng để cho mỗi người trên trái đất này chỉ còn diện tích 1 hạt thóc. Muốn thế phải góp phần làm cho chặng đường đi đến ô thứ 64 càng dài lâu hơn, càng tốt. Đó là con đường “tồn tại hay không tồn tại” của chính loài người.
(Theo Thái An, Báo Giáo dục & Thời đại Chủ nhật, số 28, 1995)
Chú thích:
(1) Tuổi cập kê (từ cũ): tuổi búi tóc cài trâm, chỉ người con gái ngày xưa đã đến tuổi có thể gả chồng.
(2) Phu quân: người chồng.
(3) Cấp số nhân: dãy số trong đó từ số thứ hai trở đi, mỗi số bằng số đứng liền trước nó nhân với một hằng số (số không đổi) gọi là công bội. Dãy 1, 2, 4, 8, 16, …. Là một cấp số nhân có công bội là (2). Dãy số này có thể viết thành 1, 2, 22,23, 24,… bàn cờ có 64 ô, vậy số hạt thóc ở ô thứ 64 là 263.
(4) Kinh Thánh: sách giáo lí của đạo Ki-to.
Dưới đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Tôi đi học sgk Ngữ văn 8 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:
ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
Nội dung chính: Văn bản đề cập đến tình trạng bùng nổ dân số thế giới quá nhanh. Từ câu chuyện một bài toán cổ về cấp số nhân, tác giả đã đưa ra các con số buộc người đọc phải liên tưởng, suy ngẫm về sự gia tăng dân số đáng lo ngại của thế giới , nhất là ở các nước chậm phát triển
1. Câu 1 trang 131 sgk Ngữ văn 8 tập 1
Xác định bố cục của văn bản, nêu nội dung chính của mỗi phần. Riêng về phần Thân bài, hãy chỉ ra các ý lớn (luận điểm).
Trả lời:
Bố cục: 3 phần
– Phần 1 (từ đầu … sáng mắt ra): Bài toán dân số đặt ra từ thời cổ đại.
– Phần 2 (tiếp … ô thứ 31 của bàn cờ): Sự tăng nhanh khủng khiếp của dân số.
+ Luận điểm 1 (Đó là câu… nhường nào): Câu chuyện kén rể của nhà thông thái.
+ Luận điểm 2 (bây giờ … không quá 5%): Sự phát triển của dân số thế giới.
+ Luận điểm 3 (trong thực tế … 34 của bàn cờ): Tỉ lệ sinh của phụ nữ Á và Phi.
– Phần 3 (còn lại): Kêu gọi loài người hạn chế gia tăng dân số.
2. Câu 2 trang 131 sgk Ngữ văn 8 tập 1
Vấn đề chính mà tác giả muốn đặt ra trong văn bản này là gì? Điều gì đã làm tác giả “sáng mắt ra”?
Trả lời:
– Vấn đề chính tác giả muốn đặt ra: con người ngày càng nhiều lên gấp bội mà đất đai, diện tích thì vẫn thế.
– Điều làm tác giả sáng mắt ra là sự gia tăng dân số trong thời buổi nay đã được đặt trong một bài toán cổ đại.
3. Câu 3 trang 131 sgk Ngữ văn 8 tập 1
Câu chuyện kén rể của nhà thông thái có vai trò và ý nghĩa như thế nào trong việc làm nổi bật vấn đề chính mà tác giả muốn nói tới?
Trả lời:
Câu chuyện kén rể của nhà thông thái làm nổi bật vấn đề gia tăng dân số, sự liên tưởng đến số thóc với dân số thật bất ngờ, thú vị, tạo nên hình dung cụ thể.
4. Câu 4 trang 132 sgk Ngữ văn 8 tập 1
Việc đưa ra những con số về tỉ lệ sinh con của phụ nữ ở một số nước theo thông báo của Hội nghị Cai-rô nhằm mục đích gì? Trong số các nước kể tên trong văn bản, nước nào thuộc châu Phi và nước nào thuộc châu Á? Bằng những hiểu biết của mình về hai châu lục đó, trước những con số tỉ lệ sinh con đã nêu, em có nhận xét gì về sự phát triển dân số ở hai châu lục này? Có thể rút ra kết luận gì về mối quan hệ giữa dân số và sự phát triển xã hội?
Trả lời:
– Việc đưa ra những con số về tỉ lệ sinh con là bằng chứng rõ ràng cho thấy tỉ lệ sinh của phụ nữ Á, Phi vô cùng mạnh.
– Các nước thuộc châu Phi có Ru-an-đa, Tan-za-ni-a, Ma-đa-gát-xca. Các nước Việt Nam, Ấn Độ, Nê-pan thuộc châu Á. Hai châu lục này có tỉ lệ các nước kém phát triển cao, nghèo, và tỉ lệ gia tăng dân số mạnh.
5. Câu 5 trang 132 sgk Ngữ văn 8 tập 1
Văn bản này đem lại cho em những hiểu biết gì?
Trả lời:
Văn bản này đưa đến cho chúng ta hiểu biết về tình hình gia tăng dân số đáng báo động trên thế giới và Việt Nam, để từ đó chúng ta có hành động thiết thực.
LUYỆN TẬP
1. Câu 1 trang 132 sgk Ngữ văn 8 tập 1
Liên hệ với phần Đọc thêm để tìm câu trả lời: Con đường nào là con đường tốt nhất để hạn chế sự gia tăng dân số? Vì sao?
Trả lời:
– Sự lựa chọn sinh đẻ là quyền của phụ nữ. Không thế dùng mệnh lệnh hay các biện pháp thô bạo để cấm đoán hay can thiệp.
– Do đó cách tốt nhất, con đường tốt nhất là con đường giáo dục. Qua đó giúp mọi người hiểu ra nguy cơ của sự bùng nổ và gia tăng dân số; vấn đề dân số gắn chặt với đói nghèo hay hạnh phúc.
– Đúng như Phê-đê-ri-cô May-o đề ra: “Đẩy mạnh giáo dục cho phụ nữ là hạ thấp tỉ lệ thụ thai cùng như tỉ lệ tử vong và tỉ lệ mắc bệnh…”.
2. Câu 2 trang 132 sgk Ngữ văn 8 tập 1
Hãy nêu các lí do chính để trả lời cho câu hỏi: Vì sao sự gia tăng dân số có tầm quan trọng hết sực to lớn đối với tương lai nhân loại, nhất là đối với các dân tộc còn nghèo nàn, lạc hậu?
Trả lời:
Sự gia tăng dân số có tầm quan trọng hết sức to lớn đối với tương lai nhân loại, nhất là đối với các dân tộc còn nghèo nàn:
+ Dân số phát triển quá nhanh, không kiểm soát sẽ dẫn đến nhiều khó khăn về không gian sống, môi trường bị ảnh hưởng, thiếu việc làm, giáo dục không kịp với đà gia tăng dân số.
+ Với các nước nghèo nàn, lạc hậu sự gia tăng dân số gây áp lực lên công việc, kinh tế từ đó dẫn tới các vấn đề về an sinh xã hội không được đảm bảo.
3. Câu 3 trang 132 sgk Ngữ văn 8 tập 1
Dựa vào số liệu về sự gia tăng dân số thế giới đã nêu trong phần Đọc thêm, hãy tính từ năm 2000 đến tháng 9 – 2003 xem số người trên thế giới đã tăng bao nhiêu và gấp khoảng bao nhiêu lần dân số của Việt Nam hiện nay.
Trả lời:
Dân số trên thế giới.
– Dân số thế giới năm 2000: hơn 6 tỉ người.
– Dân số thế giới vào thời điểm 2003: 6,32 tỉ người.
– Từ năm 2000 – 2003 dân số trên thế giới đã tăng 241 triệu người, gấp 3 lần dân số Việt Nam hiện nay.
CÁC BÀI VĂN HAY
1. Phân tích bài Bài toán dân số của Thái An
Quá khứ với hiện tại, hôm qua và hôm nay nằm trong sự phát triển liên tục của thời gian, có sự kế thừa và nâng cấp. Đó là quy luật khách quan để tồn tại của con người. Bởi thế, nếu phủ nhận quá khứ, thì đó là một sai lầm tai hại. Tuy nhiên, chiếc cầu nối giữa hôm nay với hôm qua có hai hình thức: hoặc là những hồn ma (Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, Truyện Kiều của Nguyễn Du…) hoặc là lời tiên tri của các nhà thông thái. Nếu hình thức thứ nhất nặng về nhận thức cảm tính như một ám ảnh mơ hồ thì hình thức thứ hai lí tính hơn, khách quan hơn, nó gần như một quy luật. Bởi thế, cách tiếp nhận nó cũng không giống nhau.
Ở hình thức thứ nhất, đó là giao tiếp tức thời dưới dạng giấc mơ, còn hình thức thứ hai lại tự con người phát hiện dưới dạng những văn bán ngầm có khi từ những vật vô tri, có khi từ ý nghĩa ngụ ngôn của những câu chuyện kể. Sự trùng hợp ngẫu nhiên từ những vật vô tri hay những câu chuyện kể ấy, phải thông qua những trải nghiệm, hoặc những thao tác tư duy rất hiện đại của con người mới phát hiện ra đó là chân lí vĩnh hằng.
Cảm nhận PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả bài văn chính là từ góc nhìn không ngờ, bất chợt ấy. Tâm trạng nửa tin nửa ngờ ở đây là có thật. Bởi làm sao câu chuyện dân số của hôm nay (vài chục năm nay) lai có liên quan đến một câu chuyện kén rể của hàng “dăm bảy ngàn năm về trước” ? “Tôi không tin…”, “ai mà tin”…, một cách nói ngập ngừng khi con người ta đến gần một vầng hào quang trí tuệ.
Câu chuyện làm cho tác giả bài văn “sáng mắt ra” không khác câu chuyện ngày xưa Cri-xtốp Cô-lông tìm ra châu Mỹ không phải là không có căn cứ. Chỉ có điều căn cứ ấy không từ những mệnh đề lí thuyết trừu tượng của tư duy. Sự liên tưởng, do vậy thật là lí thú. Lập luận thật bất ngờ và giàu sức thuyết phục, về cơ bản là hai câu chuyện có một cấu trúc vận động giống nhau và kèm theo sau đó là những tư liệu tham khảo để người đọc tự hoàn thành công đoạn cuối cùng: Biến khả năng thành hiện thực. Hiện thực ấy lại là một hậu quả khôn lường.
Hai câu chuyện song trùng giữa một bài toán cổ và một bài toán hôm nay: vấn đề dân số. Cái dich của hai câu chuyện giống nhau dù hai đề tài khác nhau: hành trình của con người đi tìm hạnh phúc.
Ở câu chuyện thứ nhất: để làm rể nhà thông thái, các chàng trai phải có một tiềm lực khổng lồ đủ số thóc rải vào 64 ô trên bàn cờ tướng. Yêu cầu đó tưởng như chẳng có gì là khó, “ai cũng tưởng có gì mà không đủ”, nhưng rốt cục, ai cũng ngớ người ra (để rải đủ 64 ô, chàng trai trúng tuyển phải có đủ một lượng thóc phú kín bề mặt trái đất). Đúng là câu đố của một “nhà thông thái” ! Nhưng vấn đề có tính chất toán học kia chẳng có ý nghĩa bao nhiêu nếu nó không liên tưởng đến một bài toán khác, bài toán vể dân số của loài người.
Bài toán về dân số của loài người vừa giống lại vừa khác câu chuyện kén rể của người xưa. Điểm giống nhau là tốc độ gia tăng của cấp số nhân có công bội là 2, còn sự khác nhau là ở chiều hướng của sự gia tăng ấy, ở câu chuyện thứ nhất: càng tăng nhanh càng tốt, còn ở câu chuyện thứ hai: càng chậm càng hay. Vấn đề là ở chỗ: cả hai cái đích trên đây đều khó. Bài toán vể dân số loài người không dễ hơn việc được làm rể nhà thông thái bởi tính chất lưỡng phân, bởi mâu thuẫn khó dung hoà giữa tốc độ phát triển tự nhiên và ý chí con người kìm nén nó.
Dường như, do phát triển theo khuynh hướng tự nhiên và đã có kiềm chế, dân số loài người từ một cặp vợ chồng (một chàng A-đam, một nàng Ê-va – theo Kinh Thánh), đến năm 1995 đã lên tới 5,63 tỉ người, nghĩa là đã đạt đến ô thứ 30 trên bàn cờ tướng. Đó là hiểm hoạ. Ây là chưa kể nguy cơ bùng nổ dân số có thể diễn ra bất cứ lúc nào, nhất là với các nước chậm phát triển ở hai khu vực châu Á và châu Phi. Từ 3,7 con đến 2 con cho mỗi cặp vợ chồng Việt Nam là một chỉ tiêu phấn đấu đã “rất khó khăn”. Ở các nước châu Phi, từ 5,8 con đến 2 con, khó khăn càng trở nên gấp bội.
Nếu phần thân bài là những thao tác tư duy tính toán thì phần kết bài vẫn là những số liệu băn khoăn. Đất chật, người đông, tự nó sẽ huỷ diệt. Khi đất dành cho mỗi con người chỉ còn là diện tích một hạt thóc (ô thứ 64 trên bàn cờ tướng), trái đất chác sẽ nổ tung mà ngòi nổ chính là sự gia tăng dân số mà con người không tự kiềm chế được. Đừng để xảy ra thảm hoạ, đó là lời cảnh báo cho cả loài người, không loại trừ một ai. Nó nghiêm khắc và răn đe như một định mệnh.
Về bản chất, đây là một bài văn nghị luận. Nhưng cách thuyết phục của nó không thiên về lí thuyết, lập luận cũng đơn giản nhẹ nhàng nhưng sức cảm hoá của bài văn lại không nhỏ. Từ những con số khách quan im lặng – có khi từ ngàn năm, lần đầu tiên nó dược đánh thức để nói với chúng ta những điều hộ trọng về sự còn mất của chính chúng ta, vấn đề “tồn tại hay không tồn tại” như bi kịch Ham-lét của Sếch-xpia thời Phục hưng đặt ra trong một hoàn cảnh khác, về một vấn để khác cũng quan trọng không kém về con người và sự sống của con người với quy mô toàn nhân loại.
2. Vấn đề dân số được thể hiện như thế nào qua Bài toán dân số của Thái An
Viết về hiểm hoạ của việc gia tăng dân số quá nhanh – một đề tài vừa khó vừa khô khan, tác giả của “Bài toán dân số” đã chọn cách vào đề thật hấp dẫn, vừa thực tế, vừa giàu sức thuyết phục. Từ câu chuyện nhà thông thái kén rể đến 64 ô bàn cờ với một lượng thóc “nhiều đến mức có thể phù khắp bề mặt Trái Đất”, bạn đọc dễ dàng hình dung về sự gia tăng dân số chóng mặt với tốc độ sinh sản như hiện nay.
Vấn đề chính mà tác giả đặt ra trong văn bản này là: Con người đang ngày càng tăng lên gấp bội. Nếu không hạn chế sự gia tăng dân số thì con người sẽ tự làm hại chính mình.
Điều làm tác giả “sáng mắt ra” ấy là: không ngờ một vấn đề rất hiện đại mới được đặt ra gần đây (vấn đề dân số kế hoạch hoá gia đình) thế mà dường như nó đã được đặt ra từ thời cổ đại.
Nhập đề dưới hình thức một bài toán cổ, kể về việc kén rể của nhà thông thái, phần kể của nhà văn đã vừa gây được sự tò mò, hấp dẫn của người đọc, vừa mang lại một kết luận rất bất ngờ ở phía cuối của câu chuyện kể. Lấy câu chuyện ấy làm tiền đề, tác giả đã so sánh ngay với sự bùng nổ và gia tăng dân số (cả hai đều tăng theo cấp số nhân). Cách so sánh ấy, quả thực đã làm cho người đọc hình dung một cách nhanh chóng đến tốc độ gia tăng kinh khủng của dân số. Và đây cũng chính là trọng tâm vấn đề mà bài viết muôn nêu lên.
Việc đưa ra tỉ lệ sinh con của phụ nữ ở một số nước theo thông báo của Hội nghị Cai-rô là rất có ý nghĩa. Trước hết, nó thông tin cho người ta thấy người phụ nữ có thể sinh rất nhiều con (ít như Việt Nam thì trung bình cũng là 3,7; nhiều như Ru-an-đa thì tới 8,1). Từ đó có thể thấy chỉ tiêu mỗi gia đình có hai con là rất khó khăn. Thứ hai, các con số thống kê còn cho thấy các nước chậm phát triển lại sinh con rất nhiều.
Các nước được kể trong văn bản thuộc hai nhóm:
– Châu Phi: Nê-pan, Ru-an-đa, Tan-da-ni-a, Ma-đa-gát-xca.
– Châu Á: Ấn Độ và Việt Nam.
Có thể rút ra nhận xét: Những nước kém phát triển ở hai lục địa nêu trên là những nước dân số tăng nhanh. Sự bùng nổ dân số sẽ đi kèm với sự nghèo nàn lac hậu, kinh tế chậm phát triển, văn hoá, giáo dục không được nâng cao… Ngược lại, kinh tế, văn hoá, giáo dục càng yếu kém thì lại càng không thể khống chế được sự gia tăng dân số. Nói cách khác, hai vấn đề này quan hệ chặt chẽ với nhau và tác động đến nhau một cách sâu sắc.
Bài trước:
Bài tiếp theo:
Xem thêm:
- Các bài soạn Ngữ văn 8 khác:
- Để học tốt môn Toán lớp 8
- Để học tốt môn Vật lí lớp 8
- Để học tốt môn Hóa học lớp 8
- Để học tốt môn Sinh học lớp 8
- Để học tốt môn Lịch sử lớp 8
- Để học tốt môn Địa lí lớp 8
- Để học tốt môn Tiếng Anh lớp 8
- Để học tốt môn Tiếng Anh lớp 8 thí điểm
- Để học tốt môn Tin học lớp 8
- Để học tốt môn GDCD lớp 8
Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Bài toán dân số sgk Ngữ văn 8 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các bạn làm bài Ngữ văn tốt!
“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com“