Soạn bài Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh sgk Ngữ văn 9 tập 1

Hướng dẫn Soạn Bài 5 sách giáo khoa Ngữ văn 9 tập một. Nội dung bài Soạn bài Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh sgk Ngữ văn 9 tập 1 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, phân tích, cảm nhận, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 9 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn 9, ôn thi vào lớp 10.


VĂN BẢN

CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH

(Trích Vũ trung tuỳ bút(1))

Khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774 – 1775), trong nước vô sự, Thịnh Vương (Trịnh Sâm) thích chơi đèn đuốc, thường ngự(2) ở các li cung(3) trên

Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Việc xây dựng đình đài cứ liên miên. Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần(4) thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hoá chung quanh bờ hồ để bán.

Thuyền ngự đi đến đâu thì các quan hỗ tụng đại thần(5) tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ. Cũng có lúc cho bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc(6), hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hoà vài khúc nhạc.

Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú(7), cổ mộc quái thạch(8), chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức(9) thu lấy, không thiếu một thứ gì. Có khi lấy cả cây đa to, cành lá rườm rà, từ bên bắc chở qua sông đem về. Nó giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng(10), phải một cơ binh(11) mới khiêng nổi, lại bốn người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thông la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay. Trong phủ, tuỳ chỗ, điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả(12) biết đó là triệu bất tường(13). Bọn hoạn quan cung giám lại thường nhờ giáo bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay, thì biên ngay hai chữ “phụng thủ”(14) vào. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc cho tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền. Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá, thậm chí phải phá nhà huỷ tường để khiêng ra. Các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết, có khi phải đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ. Nhà ta ở phường Hà Khẩu(15), huyện Thọ Xương(16) trước nhà tiền đường(17) có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa,, trắng xoá thơm lừng; trước nhà trung đường(18) cũng trồng hai câu lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân(19) ta sai chặt đi cũng vì cớ ấy.

(Phạm Đình Hổ(*), Vũ trung tùy bút, bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, NXB Văn học, Hà Nội, 1972)

Chú thích:

(*) Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) tên chữ là tùng Niên hoặc Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ, người làng Đan Loan, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương). Ông sống vào thời buổi đất nước loạn lạc nên muốn ẩn cư. Đến thời Minh Mạng nhà Nguyễn, vua vời ông ra làm quan. Ông đã mấy lần từ chức, rồi lại bị triệu ra. Phạm Đình Hổ để lại nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị thuộc đủ các lĩnh vực: văn học, triết học, lịch sử, địa lí,… tất cả đều bằng chữ Hán.

(1) Vũ trung tùy bút (Tùy bút viết trong những ngày mưa) là một tác phẩm đặc sắc của Phạm Đình Hổ, được viết khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỉ XIX).

Tác phẩm gồm 88 mẫu chuyện nhỏ, viết theo thể tùy bút, hiểu theo nghĩa là ghi chép tùy hứng, tản mạn, không cần hệ thống, kết cấu gì. Ông bàn về các thứ lễ nghi, phong tục, tập quán,… ghi chép những sự việc xảy ra trong xã hội lúc đó, viết về một số nhân vật, di tích lịch sử, khảo cứu về địa dư, chủ yếu là vùng Hải Dương quê ông. Tất cả những nội dung ấy đều được trình bày một cách giản dị, sinh động và hấp dẫn. Tác phẩm chẳng những có giá trị văn chương đặc sắc mà còn cung cấp những tài liệu quý về sử học, địa lí, xã hội học.

(2) Ngự: tiếng dùng dành riêng cho vua chúa (ví dụ ngự bút là chữ của vua chúa viết, thuyền ngự là thuyền của vua chúa), ở đây có nghĩa là chúa thường đến ở.

(3) Li cung: là chỗ vua chúa ở khi đi ra ngoài kinh thành

(4) Nội thần: các quan hầu cận trong cung vua, phủ chúa, thường là quan hoạn.

(5) Hỗ tụng đại thần: quan đại thần theo hầu và bảo vệ vua, chúa.

(6) Chùa Trấn Quốc: ngôi chùa ở Hồ tây, Hà Nội.

(7) Trân cầm dị thú: chim quý, thú lạ (trân: quý, dị: lạ).

(8) Cổ mọc quái thạch: cây sống lâu năm, phiến đa có hình thù kì lạ.

(9) Sức: lệnh bằng văn bản.

(10) Trượng: đơn vị đo độ dài xưa (khoảng 1,7m).

(11) Cơ binh: đơn vị quân đội thời phong kiến, số quân thường là 10 người, hoặc cũng có thể là từ 200 đến 500 người.

(12) Kẻ thức giả: người có học vấn, có kiến thức.

(13) Triệu bất tường: dấu hiệu không lành, điềm gở.

(14) Phụng thủ: lấy để dâng lên vua chúa

(15) Phường Hà Khẩu: khu vực phố Hàng Buồm, Hà Nội bây giờ.

(16) Huyện Thọ Xương: nay thuộc quân Hoàn Kiếm, Hà Nội.

(17), (18) Nhà tiền đường, nhà trung đường: nhà trước, nhà giữa.

(19) Cung nhân: chỉ chung những người phụ nữ hầu hạ trong cung vua, còn có nghĩa là chức vua phong cho vợ các quan tứ phẩm, ở đây dùng nghĩa thứ hai, chỉ bà mẹ của tác giả.

Dưới đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh sgk Ngữ văn 9 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:


ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Bố cục: 2 phần

– Phần 1 ( từ đầu đến “…biết đó là triệu bất tường”): cuộc sống xa hoa trong phủ chúa.

– Phần 2 (còn lại): lũ hoạn quan mượn gió bẻ măng, dọa dẫm lấy tiền của dân.

Nội dung chính:

Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh phản ánh đời sống xa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê – Trịnh.


1. Câu 1 trang 63 sgk Ngữ văn 9 tập 1

Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận được miêu tả thông qua những chi tiết nào? Hãy nhận xét về lời văn ghi chép sự việc của tác giả. Tại sao kết thúc đoạn văn miêu tả này, tác giả lại nói: “…kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”?

Trả lời:

– Những chi tiết thể hiện rõ thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận:

+ Chúa cho xây dựng nhiều cung điện, đình đài ở các nơi.

+ Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ: diễn ra thường xuyên, huy động rất đông người hầu hạ, bày đặt nhiều trò giải trí lố lăng và tốn kém.

+ Việc tìm thu vật “phụng thủ” thực chất là cướp đoạt những của quý trong thiên hạ về tô điểm cho nơi ở của chúa.

– Các sự việc đưa ra đều cụ thể, chân thực và khách quan.

– Kết thúc đoạn, tác giả nói “…kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”: báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại.


2. Câu 2 trang 63 sgk Ngữ văn 9 tập 1

Bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa đã nhũng nhiễu dân bằng những thủ đoạn nào? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn văn cuối bài: “Nhà ta ở phường Hà Khẩu… cũng là vì cớ ấy”.

Trả lời:

– Bọn quan lại hầu cận trong phủ Chúa đã “nhờ gió bẻ măng”, nhũng nhiễu, vơ vét của dân bằng những thủ đoạn trơ tráo, trắng trợn, vừa ăn cướp vừa la làng.

– Ý nghĩa của đoạn cuối bài: “Nhà ta ở phường Hà Khẩu…cũng vì cớ ấy”:

Tác giả ghi lại sự việc có thực xảy ra trong nhà mình. ⇒ Để làm gia tăng sức thuyết phục đồng thời bộc lộ kín đáo cảm xúc PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả (thái độ bất bình, phê phán).


3. Câu 3* trang 63 sgk Ngữ văn 9 tập 1

Theo em, thể văn tùy bút trong bài có gì khác so với thể truyện mà các em đã học ở bài trước?

Trả lời:

Tùy bút Truyện
– Cốt truyện đơn giản, mờ nhạt hoặc không có cốt truyện.
– Kết cấu tự do, lỏng lẻo, có khi tản mạn, tùy theo cảm xúc của người viết.
– Giàu tính cảm xúc, chủ quan.
– Chi tiết, sự việc chân thực: ghi chép lại những điều mắt thấy, tai nghe trong cuộc sống.
– Cốt truyện phức tạp.
– Kết cấu chặt chẽ, có sự sắp đặt đầy dụng ý nghệ thuật của người viết.
– Tính cảm xúc, chủ quan được thể hiện kín đáo qua nhân vật hoặc sự việc.
– Chi tiết, sự việc phần nhiều được hư cấu, sáng tạo.

LUYỆN TẬP

Câu hỏi trang 63 sgk Ngữ văn 9 tập 1

Căn cứ vào bài Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh và cả bài đọc thêm dưới đây, hãy viết một đoạn văn ngắn trình bày những điều em nhận thức được về tình trạng đất nước ta vào thời vua Lê – chúa trịnh cuối thế kỉ XVIII.

Trả lời:

Đoạn văn có thể gồm các ý chính như sau:

– Vua chúa ăn chơi xa xỉ, không quan tâm đến đời sống người dân.

– Quan lại tham tàn, nhũng nhiễu dân.

– Xã hội rối ren, loạn lạc.

– Đời sống nhân dân hết sức khổ cực.

Bài tham khảo

Đất nước ta vào thời vua Lê – chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII rơi vào tình cảnh vô cùng hỗn độn, lũng loạn. Vua chúa thì ăn chơi hưởng lạc, sống cuộc sống xa hoa. Trong phủ Chúa đầy đủ những loại chim quý, thú lạ, cây cổ thụ,… những thứ. Người đứng đầu triều đình không chăm lo triều chính, bỏ mặc nhân dân, bọn quan lại ỷ vào điều đó mà hành động ngang ngược, nhũng nhiễu. Đến cả những nhà giàu cũng không yên với chúng, phải bỏ của ra để thoát tội giấu vật cung phụng do chúng gán cho. Nhà có loài cây nào quý cũng đành phải chặt bỏ. Nhưng chưa hết, thời bấy giờ, cuộc sống của dân đen đói khổ tới mức có cả núi vàng cũng không mua nổi gạo mà ăn. Người không có tiền thì phải bỏ ruộng bỏ vườn, đi bóc vỏ cây, bắt chuột mà ăn. Đương lúc loạn lạc, người ta còn lấy cả thịt người để làm thức ăn đem bán. Thật khốn đốn vô cùng!

Hoặc:

Qua bài Chuyện cũ trong phủ Chúa Trịnh và bài đọc thêm chúng ta có thể thấy rõ thực trạng đất nước ta vào thời vua Lê chúa Trịnh cuối thể kỉ XVIII. Đây là một thời kì lịch sử đen tối của chế độ phong kiến Việt Nam được Phạm Đình Hổ ghi chép mộ cách cụ thể, chân thực. Một giai đoạn lịch sử đen tối, mục nát vua chúa chỉ biết ăn chơi, hưởng lạc bọn quan lại tham lam, nhũng nhiễu và tình cảnh khốn khó của nhân dân bằng cách ghi chép khách quan, trung thực.

Nhận xét – Ý nghĩa: Tác phẩm phản ánh thói xa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê – Trịnh qua thể văn tùy bút với cách ghi chép cụ thể, sinh động, khách quan.


CÁC BÀI VĂN HAY


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh sgk Ngữ văn 9 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các bạn làm bài Ngữ văn tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com