Soạn bài Hầu Trời sgk Ngữ văn 11 tập 2

Nội dung bài Soạn bài Hầu Trời sgk Ngữ văn 11 tập 2 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, phân tích, cảm nhận, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn lớp 11 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn và ôn thi THPT Quốc gia.


HẦU TRỜI

Tản Đà

TIỂU DẪN

Tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây). Quê hương ông nằm bên bờ sông Đà, gần chân núi Tản Viên. Ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, Hán học đã tàn mà Tây học cũng mới bắt đầu, nên con người ông, kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn “người của hai thế kỉ” (Hoài Thanh). Tản Đà theo học chữ Hán từ nhỏ, nhưng sau hai khoa thi Hương hỏng, ông bỏ thi, chuyển sang sáng tác văn chương quốc ngữ.

Vào những năm 20 của thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn. Các tác phẩm chính của Tản Đà: Khối tình con I,II (thơ – 1916, 1918), Giấc mộng con I, II (truyện phiêu lưu viễn tưởng – 1916,1932), Khối tình bản chính, Khối tình bản phụ (luận thuyết – 1918), Còn chơi (thơ và văn xuôi – 1921), Thơ Tản Đà (1925), Giấc mộng lớn (tự truyện – 1928)…

Điệu tâm hồn mới mẻ, “cái tôi” lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái trong thơ văn ông đã chinh phục thế hệ độc giả mới đầu thế kỉ XX. Giữa lúc thơ phú nhà nho tàn cuộc, Tản Đà có lối đi riêng, vừa tìm về với ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc, vừa có những sáng tạo độc đáo, tài hoa. Thơ văn ông có thể xem như một gạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.

Bài Hầu trời in trong tập Còn chơi, xuất bản lần đầu năm 1921. Trong tác phẩm này còn có những bài nổi tiếng khác như Còn chơi, Lo văn ế, Tống biệt…


VĂN BẢN

Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn ! Thật phách ! Thật thân thể !
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.

Nguyên tắc lúc canh ba nằm một mình,
Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.
Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,
Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.

Chơi văn ngâm chán lại chơi trăng
Ra sân cùng bóng đi tung tăng
Trên trời bỗng thấy hai cô xuống
Miệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:

– “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,
Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà!
Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắng
Có hay lên đọc, Trời nghe qua.”

Ước mãi bây giờ mới gặp tiên!
Người tiên nghe tiếng lại như quen!
Văn chương nào có hay cho lắm
Trời đã sai gọi thời phải lên.

Theo hai cô tiên lên đường mây
Vù vù không cánh mà như bay.
Cửa son đỏ chói, oai rực rỡ
Thiên môn đế khuyết như là đây!

Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạy
Trời sai tiên nữ dắt lôi dậy.
Ghế bành như tuyết vân như mây
Truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy.

Chư tiên ngôi quanh đã tĩnh túc
Trời sai pha nước để nhấp giọng.
Truyền cho “văn sĩ đọc văn nghe !”
– “Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc.”

Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.

Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.

– “Bẩm con không dám man cửa Trời
Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiên, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên Sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Trời văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi?

Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!
Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
– “Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khi văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Chẳng hay văn sĩ tên họ gì?
Người ở phương nào, ta chưa biết.”

– “Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt.”

Nghe xong Trời ngợ một lúc lâu
Sai bảo thiên tào lấy sổ xét.
Thiên tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ lên trình Thượng đế trông
– “Bẩm quả có lên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”

Trời rằng: “Không phải là Trời đày.
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.”

– “Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
Nhờ Trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng còn một bụng văn đó.
Giấy người mực người thuê người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố.
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó.
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.

Lo ăn lo mặc hết ngày tháng
Học ngày một kém tuổi càng cao
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều.
Trời lại sai con làm việc nặng quá
Biết làm có được mà dám theo.”

Rằng: “Con không nói Trời đã biết
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết
Thôi con cứ về mà làm ăn
Lòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”

Vâng nhời Trời dạy, lạy xin ra
Trời sai Khiên Ngưu đóng xe tiễn
Xe trời đã chực ngoài thiên môn
Chư tiên theo ra cùng tiễn biệt

Hai hàng lụy biệt giọt sương rơi
Trông xuống trần gian xa dặm khơi
Thiên tiên ở lại, trích tiên xuống
Theo đường không khí về trần ai.

Đêm khuya khí thanh sao thưa vắng
Trăng tà đưa lối về non Đoài.
Non Đoài đã tới quê trần giới
Trông lên chư tiên không còn ai.

Tiếng gà xao xác, tiếng người dậy
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi.
Một năm ba trăm sáu mươi đêm,
Sao được mỗi đêm lên hầu Trời!

(Theo Tuyển tập Tản Đà, NXB Văn học, Hà Nội, 1986)

Dưới đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Hầu Trời sgk Ngữ văn 11 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:


HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

Bố cục: 3 phần

– Phần 1: Từ “Đêm qua … lạ lùng”: Giới thiệu về câu chuyện.

– Phần 2: “Chủ tiên … chợ trời”: Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.

– Phần 3: “Trời lại phê cho… sương tuyết”: Thi nhân trò chuyện với trời.

Nội dung chính:

Qua bài Hầu trời, Tản Đà đã mạnh dạn tự biểu hiện “cái tôi” cá nhân – một “cái tôi” ngông, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát được khẳng định giữa cuộc đời.


1. Câu 1 trang 17 Ngữ văn 11 tập 2

Anh (chị) hãy phân tích khổ thơ đầu. Cách vào đề bài thơ gợi cho người đọc cảm giác như thế nào về câu chuyện mà tác giả sắp kể?

Trả lời:

Phân tích khổ thơ đầu:

– Kể chuyện một giấc mơ kì thú: được lên tiên.

– Nhấn mạnh cảm giác chân thật, sảng khoái, thích thú, vui sướng: Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! / Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.   

– Nhà thơ cũng không khẳng định được là mơ hay là thật: chẳng biết có hay không.

– Nghệ thuật: điệp từ “thật” (4 lần), lời thơ dẫn dắt tự nhiên, giàu cảm xúc.

⇒ Cách vào đề của bài thơ gợi màu sắc nửa hư nửa thực về câu chuyện tác giả sắp kể khiến người đọc cảm thấy tò mò và bị lôi cuốn.


2. Câu 2 trang 17 Ngữ văn 11 tập 2

Tác giả đã kể lại chuyện của mình đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe như thế nào? (Thái độ của tác giả, của chư tiên và những lời khen của Trời.) Qua đoạn thơ đó, anh (chị) cảm nhận được những điều gì về cá tính nhà thơ và niềm khao khát chân thành của thi sĩ? Nhận xét về giọng kể của tác giả.

Trả lời:

Tác giả kể lại chuyện mình đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe:

– Thái độ và tâm trạng của thi sĩ:

+ Thi sĩ đọc thơ một cách cao hứng, say sưa, nhiệt tình: Đọc hết văn vần…/…/Văn dài hơi tốt ran cung mây.

+ Tâm trạng, cảm xúc: vui sướng, tự hào, hãnh diện.

+ Đường hoàng, dõng dạc tự xưng tên tuổi trước Trời và chư tiên.

– Thái độ của Trời và chư tiên khi nghe thơ văn Tản Đà:

+ Xúc động, tán thưởng, hâm mộ.

+ Ham thích, trân trọng.

+ Trời ghi nhận tài năng của Tản Đà qua lời khen ngợi.

⇒ Cá tính nhà thơ: ngông, bản lĩnh, tài năng. Cốt lõi của cá tính Tản Đà là cái tôi tự biểu hiện, tự ý thức cao về tài năng và giá trị đích thực của mình.

⇒ Giọng kể ebook epub prc của tác giả: vừa uyển chuyển, phong phú, đa dạng vừa hóm hỉnh, ngông nghênh, tự đắc.


3. Câu 3 trang 17 Ngữ văn 11 tập 2

Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực. Đó là đoạn thơ nào? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn thơ đó. Theo anh (chị), hai nguồn cảm hứng này ở thi sĩ Tản Đà có mối liên hệ với nhau như thế nào?

Trả lời:

Đoạn thơ mang màu sắc hiện thực:

– Từ câu Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó  đến câu Biết làm có được mà dám theo.

– Ý nghĩa của đoạn thơ:

+ Phản ánh chân thực, không giấu giếm cảnh sống nghèo khó, túng quẫn của những nghệ sĩ theo đuổi nghề văn chương như Tản Đà (thước đất cũng không có, làm mãi quanh năm chả đủ tiêu, lo ăn lo mặc hết ngày tháng…).

+ Thực tế, văn chương và nghề văn chưa được coi trọng tương xứng với giá trị.

+ Cái khó của người nghệ sĩ khi vừa phải gánh vác sứ mệnh truyền bá “thiên lương” nặng nề vừa phải chống chọi với cuộc sống mưu sinh khốn khó.

– Hai nguồn cảm hứng lãng mạn và hiện thực hài hòa, đan xen:

+ Bài thơ vừa có nguồn cảm hứng thơ ca, nguồn cảm hứng biểu hiện cái tôi cá nhân dạt dào, bay bổng.

+ Vừa có nỗi xót xa cho hiện thực, cho thân phận của người nghệ sĩ.


4. Câu 4 trang 17 Ngữ văn 11 tập 2

Về mặt nghệ thuật, bài thơ này có gì mới và hay? (Chú ý các mặt : thể loại, ngôn từ, cách biểu hiện cảm xúc, hư cấu nghệ thuật…)

Trả lời:

Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ:

– Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do trong bày tỏ mạch cảm xúc.

– Giọng điệu thơ thoải mái, tự nhiên.

– Ngôn ngữ giản dị mà sống động; cách kể chuyện duyên dáng, hóm hỉnh.

– Cảm xúc tự do, phóng túng.


LUYỆN TẬP

1. Câu 1 trang 17 Ngữ văn 11 tập 2

Bài Hầu Trời có ý tưởng gì hoặc câu thơ nào làm cho anh (chị) thích thú nhất? Hãy viết một đoạn văn trình bày cảm xúc của mình.

Trả lời:

– Cách xưng danh ebook epub prc của tác giả:

– “Dạ, bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu học là Nguyễn
 Quê ở Á Châu về Địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Việt Nam”

– Tác giả đã tâu trình rõ ràng về họ tên, xuất xứ của mình cho Trời nghe.

– Có một nụ cười hóm hỉnh ẩn đằng sau vẻ thật thà, thành khẩn trước đấng trí tôn, nhưng điều đáng nói hơn hết vẫn là ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của nhà thơ.

– Cách nói của nhà thơ không chỉ là cách nói của ý thức cá nhân, của cái ngông mà còn chứa đựng một thái độ tự tôn dân tộc, một tình cảm yêu nước đáng quý.

– Những trường hợp xưng danh trong thơ thời văn học trung đại: Mời trầu – Hồ Xuân Hương,  Đọc Tiểu Thanh kí – Nguyễn Du, Bài ca ngất ngưởng – Nguyễn Công Trứ


2. Câu 2* trang 17 Ngữ văn 11 tập 2

Anh (chị) hiểu thế nào là “ngông” ? Cái “ngông” trong văn chương thường bộ lộ thái độ sống như thế nào? (Có thể dẫn chứng qua những tác phẩm đã học) Cái “ngông” của thi sĩ Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở những điểm nào và có thể giải thích ra sao?

Trả lời:

– “Ngông” chỉ sự khác thường. “Ngông” trong văn chương dùng để chỉ một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường có ở nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ.

– Trong bài Hầu Trời, cái ngông của Tản Đà có những biểu hiện nổi bật:

+ Tự cho mình văn

+ Không thấy có ai đáng là kẻ tri âm tri kỉ với mình ngoài Trời và chư tiên.

+ Xem mình là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông.

+ Nhận mình là người nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả

+ Ngoài ra, việc nhà thơ bịa ra chuyện hầu Trời.

– Tản Đà không phải trường hợp ngông cá biệt trong văn học Việt Nam. Trước ông, những người như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,… đều ngông.


CÁC BÀI VĂN HAY


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Hầu Trời sgk Ngữ văn 11 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các em làm bài Ngữ văn thật tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com