Soạn bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn sgk Ngữ văn 10 tập 2

Nội dung bài Soạn bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn sgk Ngữ văn 10 tập 2 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, phân tích, cảm nhận, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn lớp 10 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn và ôn thi THPT Quốc gia.


HƯNG ĐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN

(Trích Đại Việt sử kí toàn thư)

Ngô Sĩ Liên

TIỂU DẪN

Ngô Sĩ Liên, chưa rõ năm sinh và năm mất, người làng Chúc Lí, huyện Chương Đức, nay thuộc xã Chúc Sơn, huyện Chương Mĩ, tỉnh Hà Tây. Ông đỗ Tiến sĩ năm 1442 dưới triều Lê Thái Tông, được cử vào Viện Hàn lâm. Đến đời Lê Thánh Tông, ông giữ chức Hữu thị lang bộ Lễ, Triều liệt đại phu kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Tu soạn Quốc sử quán. Ông đã vâng lệnh Lê Thánh Tông biên soạn bộ Đại Việt sử kí toàn thư.

Đại Việt sử kí toàn thư là bộ chính sử lớn của Việt Nam thời trung đại do Ngô Sĩ Liên biên soạn, hoàn tất năm 1479, gồm 15 quyển, ghi chép lịch sử từ thời Hồng Bàng cho đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi (năm 1428). Theo lời tựa của chính tác giả ở đầu tập sách thì Đại Việt sử kí toàn thư được biên soạn dựa trên cơ sở sách Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu ở thời Trần và Sử kí tục biên của Phan Chu Tiên ở đầu thời Hậu Lê. Tác phẩm thể hinệ tinh thần dân tộc mạnh mẽ, vừa có giá trị sử học vừa có giá trị văn học.


VĂN BẢN

Tháng 6, ngày 24, sao sa.

Hưng Đạo Đại Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng:

– Nếu có điều chẳng may mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?

Vương trả lời:

– Ngày xưa Triệu Vũ (1) dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế “thanh dã” (2), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời Đinh, Lê dùng được người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ (3) mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lí mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lí Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh (4) là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước cùng nhà góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản (binh) chế trường (trận) là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cần thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.

Quốc Tuấn là con An Sinh Vương, lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: “Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ. An Sinh Vương trước đây vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng (5), mang lòng hậm hực, tìm khắp những người tài nghệ để dạy Quốc Tuấn. Lúc sắp mất, An Sinh cầm tay Quốc Tuấn giối giăng rằng:

– Con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được.

Quốc Tuấn ghi để điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải.

Đến khi vận nước ở trong tay, quyền quân quyền nước đều do ở mình, ông đem lời cha dặn nói với gia nô là Dã Tượng, Yết Kiêu. Hai người gia nô can ông:

– Làm kế ấy tuy được phú qu‎ một thời mà để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại vương há chẳng đủ phú và qu‎ hay sao? Chúng tôi thề xin chết già làm gia nô, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu, chỉ xin lấy người làm thịt dê là Duyệt (6) làm thầy mà thôi!

Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người.

Một hôm Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương:

– Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?

Hưng Vũ Vương trả lời:

– Dẫu khác họ cũng còn không nên, huống chi là cùng một họ!

Quốc Tuấn ngầm cho là phải.

Lại một hôm Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa:

– Tống Thái Tổ (7) vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ.

Quốc Tuấn rút gươm kể tội:

– Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra.

Định giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha. Đến đây ông dặn Hưng Vũ Vương:

– Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng.

Mùa thu, tháng 8, ngày 20, Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn mất ở phủ đệ Vạn Kiếp, được tặng Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.

Thánh Tông có soạn bài văn bia ở sinh từ (8) của Quốc Tuấn, ví ông với Thượng phụ (9) ngày xưa. Lại vì ông có công lao lớn, gia phong là Thượng quốc công, cho phép ông được quyền phong tước rồi tâu sau. Nhưng Quốc Tuấn chưa bao giờ phong tước cho một người nào. Khi giặc Hồ vào cướp, Quốc Tuấn lệnh cho nhà giàu bỏ thóc ra cấp lương quân, mà cũng chỉ cho họ làm lang tướng giả chứ không dám cho họ chức lang tướng thực, ông kính cẩn giữ tiết làm tôi như vậy đấy.

Quốc Tuấn lại từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền, dẫn chuyện Kỉ Tín chết thay để cứu thoát Hán Cao (10), Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử (11). Thế là dạy đạo trung đó.

Khi sắp mất, ông dặn con rằng:

– Ta chết thì phải hỏa táng, lấy vật tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc, rồi san đất và trồng cây như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lại phải làm sao cho mau mục.

Quốc Tuấn giữ Lạng Giang, người Nguyên hai lần vào cướp, ông liên tiếp đánh bại chúng, sợ sau này có thể xảy ra tai họa đào mả chăng. Ông lo nghĩ tới việc sau khi mất như thế đấy.

Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp Ô Mã Nhi, Toa Đo. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là một môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự, bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy. Xem như khi Thánh Tông vờ bảo Quốc Tuấn rằng: “Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi”, Quốc Tuấn trả lời: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng”. Vì thế, đời Trùng Hưng lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên. Sau khi mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn, dịch bệnh, nhiều người cầu đảo ông. Đến nay, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn.

Quốc Tuấn từng soạn sách Binh gia điệu li yếu lược để dạy các tì tướng /…/ Quốc Tuấn lại sưu tập binh pháp các nhà, làm thành Bát quái cửu cung đồ, đặt tên là Vạn Kiếp tông bí truyền thư.

HOÀNG VĂN LÂU dịch
(Đại Việt sử kí toàn thư, tập II, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1985

Dưới đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn sgk Ngữ văn 10 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:


HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

Bố cục: (3 phần)

– Phần 1 (“Tháng sáu… giữ nước”): Lời khuyên vua Trần về kế sách giữ nước của Trần Quốc Tuấn.

– Phần 2 (“Quốc Tuấn là con… viếng”): Trần Quốc Tuấn với lời trăng trối của cha, trong câu chuyện với gia nô và hai con trai.

– Phần 3 (còn lại): Những công tích lớn, trước tác chính và lời dặn con của Trần Quốc Tuấn.

Nội dung chính:

Khắc hoạ hình ảnh Trần Quốc Tuấn, một vị tướng đủ đức, nhân, trí, dũng, được nhân dân phong thánh, thờ phụng ở các đền trong nước.


1. Câu 1 trang 44 Ngữ văn 10 tập 2

Anh (chị) rút ra được điều gì qua lời trình bày của Trần Quốc Tuấn với vua về kế sách giữ nước?

Trả lời:

– Nội dung lời trình bày:

+ Chống giặc phải tùy thời tạo thế, các thời không giống nhau, cách giặc tiến công cũng không giống nhau, phải tỉnh táo và linh hoạt trong dụng binh.

+ Chú trọng việc xây dựng đội quân đoàn kết, một lòng như cha con.

+ Thượng sách giữ nước là khoan thư sức dân.

– Lời trình bày cho thấy kinh nghiệm dày dặn, tài năng bản lĩnh và tâm huyết của Trần Quốc Tuấn đối với vua, với nước.


2. Câu 2 trang 44 Ngữ văn 10 tập 2

Chi tiết Trần Quốc Tuấn đem lời cha dặn ra hỏi ‎ kiến hai người gia nô cùng hai người con và những phản ứng của ông khi nghe câu trả lời của họ có ‎ ý nghĩa như thế nào?

Trả lời:

– Phản ứng khi nghe lời khuyên can của Yết Kiêu, Dã Dượng, Hưng Vũ Vương: cảm phục đến khóc, khen ngợi hai ngườiNgầm cho là phải.

– Nghe câu nói cổ vũ của Hưng Nhượng Vương: rút gươm kể tội, trách mắng, lại dặn Hưng Vũ Vương không cho Quốc Tảng vào viến khi qua đời.

⇒ Trần Quốc Tuấn có lòng trung nghĩa tuyệt đối với vua, với nước, với nhân dân. Ông cũng là người thận trọng, quyết đoán, có quan điểm riêng và đặc biệt nghiêm khắc trong giáo dục. Vẻ đẹp nổi bật ở đây là việc đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích cá nhân hẹp hòi.


3. Câu 3 trang 44 Ngữ văn 10 tập 2

Đoạn trích đã làm nổi bật những đặc điểm gì về nhân cách của Trần Quốc Tuấn? Chỉ ra sự khéo léo trong nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật của tác giả. (Nhân vật được đặt trong những mối quan hệ và những tình huống như thế nào?)

Trả lời:

Nhân cách của Trần Quốc Tuấn: trung quân ái quốc, công bằng liêm chính, nhìn xa trông rộng, tài năng đức độ.

⇒ Nghệ thuật khắc họa chân dung nhân vật: đặt nhân vật vào nhiều mối quan hệ (vua, dân, gia nô, con cái) và những tình huống thử thách, nhân vật tự bộc lộ mình qua cách lựa chọn, hành động, lời nói trong các tình huống ấy.


4. Câu 4 trang 44 Ngữ văn 10 tập 2

Anh (chị) có nhận xét gì về nghệ thuật kể chuyện trong đoạn trích?

Trả lời:

– Kể chuyện không theo trình tự thời gian mà ngược dòng từ thời điểm Hưng Đạo Vương bị ốm (sao sa: điềm báo qua đời) trở về trước.

– Cách kể chuyện hấp dẫn bằng cách kể lại những tình huống tiêu biểu, quan trọng để làm nổi bật nhân vật, không kể triền miên, lan man.

– Khéo léo lồng ghép những nhận xét sắc sảo về nhân vật giúp định hướng người đọc.

– Kể sử nhưng không nặng nề về sự kiện, thời gian mà tập trung vào những câu chuyện sinh động làm nổi bật tính cách, phẩm chất của nhân vật, tạo hứng thú cho người đọc.


5. Câu 5 trang 45 Ngữ văn 10 tập 2

Chi tiết về lòng tin của dân chúng vào sự hiển linh của Hưng Đạo Vương, đặc biệt là hình ảnh “tráp đựng kiếm có tiếng kêu” có ‎ nghĩa gì?

a) Cho thấy tín ngưỡng và những tập tục thờ cúng của nhân dân ta thời xưa.

b) Cho thấy lòng cảm phục và ngưỡng mộ của nhân dân đối với Hưng Đạo Vương sâu sắc đến mức họ đã thần thánh hóa ông, cho rằng ông đã trở thành thần linh để giúp dân, giữ nước.

c) Chỉ là những truyền thuyết để làm nổi bật tấm lòng thương dân yêu nước và khí phách anh hùng của ông – những nét đẹp đã trở thành bất tử trong lòng người.

d) Ý kiến khác.

Trả lời:

⇒ Đáp án: b).


LUYỆN TẬP

1. Câu 1 trang 45 Ngữ văn 10 tập 2

Từ những chi tiết trong đoạn trích, anh (chị) hãy tóm tắt lại câu chuyện về Trần Quốc Tuấn (không quá 20 dòng).

Trả lời:

Khi Hưng Đạo Vương ốm, vua ngự tới thăm và hỏi về kế sách chống giặc. Đại Vương kể khắp xưa nay rồi nói: muốn thắng trận phải tùy thời mà tạo thế. Điều cốt yếu là có một đội quân một lòng như cha con. Vả lại phải lấy dân làm gốc, đó là thượng sách giữ nước của đấng quân vương. Quốc Tuấn có tư chất từ nhỏ. Lớn lên dung mạo khôi ngô, tuấn tú, tài trí hơn người. Trước khi mất, cha ông dặn phải lấy cho được thiên hạ. Ông ghi nhớ lời cha nhưng không cho là phải. Sau ông đem chuyện ấy kể cho gia nô và hai người con trai nghe để phân định người hiền tài, kẻ bạc nhược nhỏ nhen. Tất thảy đều rõ ràng hết cả. Quốc Tuấn có công lớn, vua ban thưởng, gia phong là Thượng Quốc Công. Vua còn cho phép ông được quyền phong tước cho người khác. Nhưng ông chưa bao giờ phong tước cho ai. Quốc Tuấn từng soạn sách để kêu gọi, khích lệ binh tướng xả thân cứu nước giúp vua. Ông lại khéo tiến cử rất nhiều người hiền tài cho đất nước. Bản thân Đại Vương cũng từng ra quân hàng trăm trận, lập nên công nghiệp hiếm có, tiếng vang còn truyền đến tận mai sau.


2. Câu 2 trang 45 Ngữ văn 10 tập 2

Sưu tầm những câu chuyện có liên quan đến Trần Quốc Tuấn hoặc những bài thơ viết về ông (từ các tài liệu lịch sử, tài liệu văn học, các giai thoại trong dân gian).

Trả lời:

Những câu chuyện có liên quan đến Trần Quốc Tuấn:

– Ba lần đánh tan quân Nguyên-Mông

– Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên-Mông thế kỉ XIII (Hà Văn Tấn-Phạm Thị Tâm).


CÁC BÀI VĂN HAY


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn sgk Ngữ văn 10 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các em làm bài Ngữ văn thật tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com