Hướng dẫn Soạn bài Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học sgk Ngữ văn 7 tập 1

Hướng dẫn Soạn Bài 13 sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập một. Nội dung bài Soạn bài Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học sgk Ngữ văn 7 tập 1 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, tự sự, cảm thụ, phân tích, thuyết minh… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 7 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn lớp 7.

Soạn bài Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học sgk Ngữ văn 7 tập 1
Soạn bài Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học sgk Ngữ văn 7 tập 1

I – Chuẩn bị ở nhà

Phát biểu cảm nghĩ về một tác phẩm văn học (bài văn, bài thơ) là trình bày những cảm xúc, tưởng tượng, liên tưởng, suy ngẫm của mình về nội dung và hình thức của tác phẩm đó.

Cho đề bài: Phát biểu cảm nghĩ về một trong hai bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cảnh khuya”, “Rằm tháng giêng”.


1. Tìm hiểu đề và tìm ý

a) Đọc bài thơ, em hình dung, tưởng tượng khung cảnh thiên nhiên và tình cảm PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả Hồ Chí Minh như thế nào?

b) Chi tiết nào làm cho em chú ý và hứng thú? Tại sao?

c) Qua bài thơ, em hiểu tác giả Hồ Chí Minh là một người như thế nào?


2. Dàn bài

a) Mở bài: Giới thiệu bài thơ và cảm nghĩ chung của em.

b) Thân bài: Nêu cảm nghĩ của em:

– Cảm nhận, tưởng tượng về hình tượng thơ trong tác phẩm.

– Cảm nghĩ về từng chi tiết (theo thứ tự trước, sau).

– Cảm nghĩ về tác giả của bài thơ.

c) Kết bài: Tình cảm của em đối với bài thơ.


3. Gợi ý chuẩn bị bài văn nói

a) Mở bài:

Có thể tham khảo những cách mở bài sau:

– Giới thiệu tác phẩm:

+ Cảnh khuya (hay Rằm tháng Riêng) là một bài thơ …

+ Cảnh khuya được Bác Hồ sáng tác vào thời kì …

– Giới thiệu ấn tượng, cảm xúc của mình:

+ Đọc bài Cảnh khuya, em thấy một bức tranh thiên nhiên hiện ra trong tâm trí …

+ Bài Cảnh khuya thật thú vị …

b) Thân bài:

– Chuẩn bị đoạn văn nêu cảm nhận chung về hình ảnh trong bài (phong cảnh, tâm hồn).

– Chuẩn bị đoạn văn nêu cảm nghĩ theo từng câu thơ. Ở đây nên vận dụng các biện pháp liên tưởng, tưởng tượng, so sánh, …

c) Kết bài:

Có thể kết bài theo những cách sau (hoặc nghĩ thêm cách khác):

– Bài thơ cho ta thấy Bác Hồ là một nhà cách mạng, một nhà thơ, …

– Qua bài thơ, ta thấy Bác Hồ là một con người lạc quan, yêu đời …

– Đọc bài thơ, ta thấy Bác Hồ là một nghệ sĩ biết yêu cái đẹp và sáng tạo cái đẹp cho đời…


II – Thực hành trên lớp

1. Học sinh phát biểu trong tổ, nhóm khoảng 20 phút.

2. Một số học sinh phát biểu trước lớp; thầy, cô giáo nhận xét, đánh giá.

Yêu cầu: Phát biểu rõ ràng, mạch lạc, giọng nói có cảm xúc, tự nhiên.


III – Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học – Tham khảo

1. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảnh khuya

Dàn bài:

Mở bài: Giới thiệu bài thơ Cảnh khuya về hoàn cảnh sáng tác, nội dung, ý nghĩa.

Thân bài:

– Bức tranh thiên nhiên trong bài: Tuyệt đẹp, nên thơ, trữ tình:

+ Tiếng suối trong trẻo, so sánh với tiếng hát tạo nên sự gần gũi.

+ Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa: Là sự gắn kết của thiên nhiên. Không cần một sợi dây nối nào, chúng tự lồng ghép, đan xen, hòa quyện vào nhau. Ánh trăng, cổ thụ, hoa quấn quýt, lung linh, huyền ảo và nhiều màu sắc.

– Tâm trạng nhà thơ: Tâm hồn rung động trước thiên nhiên, nổi bật là “nỗi lo”, là tâm tư “chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.

– Đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ lục bát, sử dụng phép điệp từ “lồng”, “chưa ngủ”.

Kết bài: Chúng ta càng yêu thiên nhiên, thêm cảm phục, yêu quý tâm hồn và tấm lòng của Bác.

Bài tham khảo:

Hồ Chủ tịch không những là vị lãnh tụ vĩ đại, người cha già của dân tộc Việt Nam mà còn là một thi sĩ nổi tiếng.

Đọc bài thơ Cảnh khuya em càng thấy rõ hơn tâm hồn thi sĩ và tấm lòng của người chiến sĩ trong Bác. Em thấy say mê cảnh đẹp hùng vĩ nên thơ của núi rừng Việt Bắc – cái nôi của cách mạng. Em cũng rất khâm phục, kính yêu lòng yêu nước vĩ đại của Bác:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Bức tranh thiên nhiên đẹp của rừng Việt Bắc thể hiện ở ngay câu thơ đầu:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảnh thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên thơ mộng hơn, tươi đẹp hơn nhờ biện pháp so sánh tài tình và độc đáo:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Âm thanh mới trong trẻo, du dương, ngân nga làm sao. Âm “a” cuối câu gợi nên cung bậc của tiếng suối đều đặn, miên man, mang lại cho tâm hồn em một âm hưởng thiết tha, ngọt ngào, mà sâu lắng.

Nghệ thuật so sánh còn tạo ra một vẻ đẹp mới cho hình ảnh thơ: Bác biến dòng suối thành tiếng hát, một âm thanh rất trong trẻo, trẻ trung. Tiếng suối như có hồn của người nghệ sĩ. Bác đứng dưới rừng Việt Bắc thưởng thức tiếng suối, thưởng thức cảnh thiên nhiên của núi rừng khi đã về khuya.

Phải rất say mê, chan hòa với thiên nhiên, hòa hợp thán thiết với thiên nhiên Bác mới nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên như thế. Thiên nhiên tạo ra vẻ đẹp trong tâm hồn Bác. Đọc đến đây dẫu không phải là người nghệ sĩ, không thân thiết được với thiên nhiên như Bác, em cũng thấy lòng mình rung động mãnh liệt. Em thấy vỏ cùng sung sướng, xúc động và em như thấy con suối hiện ra trước mắt mình thật lung linh, huyền ảo.

Nếu như tiếng suối làm cho cảnh vật tĩnh lặng, sâu lắng thì ánh trăng làm cho cảnh vật thơ mộng hơn:

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Trăng tròn vành vạnh tỏa ánh sáng xuống trần gian. Những lùm cây rậm rạp được trăng chiếu xuống trông như những sợi kim tuyến lấp lánh trang điểm trên mái tóc bồng bềnh của nàng thiếu nữ. Trăng soi qua kẽ lá, chiếu xuống đất tạo thành muôn vàn những đốm trắng nhỏ li ti trên mặt đất lấm tấm như hoa gấm.

Trăng, cây cổ thụ, bóng hoa tuy ở ba tầng bậc khác nhau nhưng chúng không cách biệt mà gắn bó, đan xen vào nhau, lồng vào nhau, tôn thêm vẻ đẹp cho nhau. Chúng cũng sống động lên nhờ từ “lồng”. Trước mắt em là một bức tranh tươi đẹp, các nét cảnh hòa quyện đan xen khiến cho bức tranh đó làm em say mê, ngây ngất.

Cảnh rừng Việt Bắc rất phong phú nhưng Bác chỉ khắc họa một vài nét: ánh trăng, tiếng suối. Tuy nhiên em vẫn hình dung thấy một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong tâm hồn tinh tế, nhạy cảm của Người.

– Phải chăng Bác thao thức, chưa ngủ vì cảnh thiên nhiên quá đẹp?

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Nghệ thuật so sánh này gây được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Cảnh rừng Việt Bắc như một bức tranh – “như vẽ “một bức tranh tươi đẹp nhưng cũng hết sức hoàn hảo, có trăng, có suối, có bóng hoa, có cây cổ thụ. Hai lần tác giả dùng biện pháp so sánh trong bài nhitog mỗi lần so sánh, mang đến một vẻ đẹp tươi khác nhau. Nhờ đó cảnh rừng Việt Bắc hiện ra cụ thể hơn.

Hãy trở lại với tâm hồn của Bác. Bác muôn vàn kính yêu của chúng ta quả là một người có tâm hồn yêu thiên nhiên và yêu nước sâu sắc. Khác với người xưa, Bác không những yêu thiên nhiên mà Bác còn lo lắng cho nước nhà, lo cho giang sơn tươi đẹp:

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Cảm xúc khâm phục Bác càng dâng lên trong em. Câu thơ đã lí giải toàn bộ nguyên do vì sao Bác không ngủ: vì lo nỗi nước nhà.

Nhờ câu thơ này em hiểu ra hoàn cảnh của Bác lúc đó. Có lẽ đã bao đêm Bác thao thức không ngủ như thế này vì Bác lo cho dân, cho nước. Rồi đêm nay, giữa núi rừng Việt Bắc, bất chợt gặp khung cảnh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, lòng Bác tràn trề cảm xúc và đã bật ra những vần thơ chứ không phải Bác ngắm cảnh để làm thơ. Điều ấy càng khiến em xúc động. Em càng kính yêu, khâm phục vô bờ bến đốì với tâm hồn, trái tim vĩ đại của Bác.

Đọc Cảnh khuya em vừa say mê với cảnh vừa khâm phục phẩm chất và tâm hồn của Bác. Đọc bài thơ em bắt gặp tâm hồn của người thi sĩ và tấm lòng của người chiến sĩ. Tâm hồn ấy, tấm lòng ấy kết hợp hài hòa trong con người Bác. Bác không bao giờ xao lãng việc nước, xao lãng việc quân dù chỉ trong một chút thư giãn với thiên nhiên hay một thoáng mơ màng sau một ngày làm việc vất vả. Từ đó em càng thấy kính trọng, tôn kính Người.

Bài tham khảo 2:

Bài thơ Cảnh khuya được Bác Hồ sáng tác vào năm 1947, thời kì đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kì, gian khổ mà oanh liệt của dân tộc ta. Giữa hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề và những thử thách ác liệt tưởng chừng khó có thể vượt qua.

Bác Hồ vẫn giữ được phong thái ung dung, tự tại. Người vẫn dành cho mình những giây phút thanh thản để thưởng thức vẻ đẹp cua thiên nhiên nơi chiến khu Việt Bắc. Thiên nhiên đã trở thành nguồn động viên to lớn đối với người nghệ sĩ – chiến sĩ là Bác.

Như một họa sĩ tài ba, chỉ vài nét bút đơn sơ, Bác đã vẽ ra trước mắt chúng ta vẻ đẹp lạ kì của một đêm trăng rừng:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.

Trong đêm khuya thanh vắng, dường như tất cả các âm thanh khác đều lặng chìm đi để bật lên tiếng suối róc rách, văng vẳng như một tiếng hát trong trẻo, du dương. Tiếng suối làm cho không gian vốn tĩnh lặng lại càng thêm tĩnh lặng. Nhịp thơ ¾ ngắt ở từ trong sau đó là nốt lặng giống như thời gian suy ngẫm, liên tưởng để rồi đi đến hình ảnh so sánh thật đẹp:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa.

Ánh trăng bao phủ lên mặt đất, trùm lên tán cây cổ thụ. Ánh trăng chiếu vào cành lá, lấp lánh ánh sáng huyền ảo. Bóng trăng và bóng cây quấn quýt, lồng vào từng khóm hoa rồi in lên mặt đất đẫm sương:

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa.

Khung cảnh thiên nhiên có xa, có gần. Xa là tiếng suối, gần là bóng trăng, bóng cây, bóng hoa hòa quyện, lung linh. Sắc màu của bức tranh chỉ có trắng và đen. Màu trắng bạc của ánh trăng, màu đen sẫm của tàn cây, bóng cây, bóng lá.

Nhưng dưới gam màu tưởng chừng lạnh lẽo ấy lại ẩn chứa một sức sống âm thầm, rạo rực của thiên nhiên. Hòa với âm thanh của tiếng suối có ánh trăng rời rợi, có bóng cổ thụ, bóng hoa… Tất cả giao hòa nhịp nhàng, tạo nên tinh điệu êm đềm, dẫn dắt hồn người vào cõi mộng.

Nếu ở hai câu đầu là cảnh đẹp đêm trăng nơi rừng sâu thì hai câu sau là tâm trạng của Bác trước thời cuộc:

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Trước vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên, Bác đã sung sướng thốt lên lời ca ngợi: cảnh khuya như vẽ. Cái hồn của tạo vật đã tác động mạnh đến trái tim nghệ sĩ nhạy cảm của Bác và là nguyên nhân khiến cho người chưa ngủ. Ngủ làm sao được trước đêm lành trăng đẹp như đêm nay?! Thao thức là hệ quả tất yếu của nỗi trăn trở, xao xuyến không nguôi trong tâm hồn Bác trước cái đẹp.

Còn lí do nữa không thể không nói đến. Bác viết thật giản dị: Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Vậy là đã rõ. Ở câu thơ trên, Bác chưa ngủ vì tâm hồn nghệ sĩ xao xuyến trước cảnh đẹp. Vòn ở câu dưới, Bác chưa ngủ vì nghĩ đến trác nhiệm nặng nề của một lãnh tụ cách mạng đang Hai vai gánh vác việc sơn hà.

Trong bất cứ thời điểm nào, hoàn cảnh nào. Bác cũng luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm dân, nước. Nỗi niềm ấy hội tụ mọi suy nghĩ, tình cảm và hành động của Người. Tuy Bác lặng lẽ ngắm cảnh thiên nhiên và phát hiện ra những nét đẹp tuyệt vời nhưng tâm hồn Bác vẫn hướng tới nước nhà.

Đang từ trạng thái say mê chuyển sang lo lắng, tưởng chừng như phi logic nhưng thục ra điều này lại gắn bó khăng khít với nhau. Cảnh gợi tình và tình không bó hẹp trong phạm vi cá nhân mà mở rộng tới tình dân, tình nước, bởi Bác đang ở cương vị một lãnh tụ Cách mạng với trách nhiệm vô cùng to lớn, nặng nề.

Bác không giấu nỗi lo mà nói đến nó rất tự nhiên. Ánh trăng vằng vặc và Tiếng suối trong như tiếng hát xa không làm quên đi nỗi đau nô lệ của nhân dân và trách nhiệm đem lại độc lập cho đất nước của Bác. Ngược lại, chính cảnh thiên nhiên đẹp đẽ đầy sức sống đã khơi dậy mạnh mẽ quyết tâm cứu nước cứu dân của Bác.

Non sông đất nước đẹp như gấm như hoa này không thể nào rơi vào tay quân xâm lược. Câu thơ cuối cùng chất chứa cảm xúc thật miên mông, sâu sắc. Hồn người lắng sâu vào hồn cảnh vật và cái sâu lắng của cảnh vật tôn thêm nét sâu lắng của hồn người.

Cảnh khuya là một bài thơ hay, có sự kết hợp hài hòa giữa tính truyền thống và tính hiện đại, giữa lãng mạn và hiện thực. Bài thơ bộc lộ rõ tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và ý thức trách nhiệm cao cả của Bác Hồ – vị lãnh tụ giản dị mà vĩ đại của đại dân tộc ta. Bài thơ là một dẫn chứng sinh động chứng minh cho phong cách tuyệt vời của người nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh.

Bài tham khảo 3:

Đêm nay, tôi không ngủ được. Nhìn ánh trăng lung linh, huyền ảo, tôi nhớ lại bài thơ Cảnh khuya của Bác Hồ Chí Minh. Tác phẩm đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc. Bởi lẽ mỗi khi tôi ngâm bài thơ, một cảnh khuya tuyệt đẹp lại hiện lên trong tâm trí, nhưng đẹp nhất vẫn là hình ảnh của một vị Cha già kính yêu, luôn lo cho “con”, luôn lo cho vận mệnh của đất nước.

Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt đã cho ta thấy được một cảnh trăng khuya thơ mộng và cũng giúp ta hiểu rõ hơn về con người của Bác.

Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Mở đầu bài thơ là một tiếng hát làm say mê lòng người và ngân vang khắp núi rừng. Tôi nhớ đến tiếng hát ru dịu dàng, ngọt ngào của mẹ. Hình ảnh của một người phụ nữ thân quen hát dân ca bên dòng suối quê hương…. Ta có thể thấy được tâm hồn của đại thi hào Nguyễn Trãi trong người Bác (Tiếng suối trong như tiếng đàn cầm). Nhưng ta cảm nhận được phong thái của Bác trẻ trung, ung dung và lạc quan hơn.

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.

Tiếp đến là một ánh trăng sáng tỏ vùng trời lung linh, huyền ảo. Ánh trăng khuất sau cây cổ thụ, rọi sắc sáng xuống hoa lá. Hoa lá nghiêng bóng trên mặt đất. Bóng của hoa lá, cỏ cây và ánh trăng lồng quyện vào nhau, trăng đan vào cây cổ thụ, trăng tràn vào hoa. Màu đen của bóng vật đan xen vào sắc trắng của ánh trăng tạo nên một bức tranh lấp lóa, lúc ẩn lúc hiện. Tiếng suối chảy nghe nhẹ nhàng, trong trẻo hơn dưới cảnh răng khuya. Một phong cảnh hữu tình, thơ mộng.

Ta có thể thấy được Bác Hồ và Lí Bạch đều rung động trước ánh trăng. Nhưng tình yêu thiên nhiên của Bác lại có vẻ đằm thắm và tha thiết hơn Lí Bạch. Bác đã xem ánh trăng như người bạn tri kỉ, như làn suối mát làm tan đi nỗi ưu phiền….Thiên nhiên cũng như hiểu được tâm sự của Bác, giúp tâm hồn Bác thanh thản, quên đi những khó khăn, vất vả của cuộc kháng chiến đang diễn ra gay go, quyết liệt.

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Hai câu thơ cuối đã cho ta thấy được nỗi lòng khiến Bác Hồ không ngủ được. “Có phải Bác chưa ngủ vì cảnh trăng khuya quá đẹp? Hay thực sự Bác chỉ thao thức vì lo nỗi nước nhà?”- Theo tôi là vì cả hai. Bác rung cảm trước thiên nhiên nhưng lại không thể hưởng thụ trọn vẹn một cảnh khuya lung linh, tuyệt đẹp mà phải lo cho vận mệnh của dân tộc.

Chính vì Bác quá yêu thiên nhiên nên phải đứng lên đấu tranh để bảo vệ đất nước; để ngày ngày mọi người được sống tự do, hạnh phúc, thỏa sức ngám trăng; để những cảnh đẹp luôn tồn tại mãi mãi…. Ta có thể thấy được sự hài hòa giữa người thi sĩ và người chiến sĩ vĩ đại. Qua đó cảm nhận được tình yêu thiên nhiên tha thiết hòa vào trong lòng yêu nước sâu nặng của Bác Hồ. Một vị lãnh tụ cao cả và vĩ đại.

Sự hi sinh của Bác đã được đền đáp. Đất nước của chúng ta đã dược hòa bình và tự do. Chúng ta có thể thỏa sức ngắm trăng. Dòng chảy thời gian sẽ không bao giờ ngừng lại, nhưng ánh trăng ánh trăng và bài thơ Cảnh khuya sẽ luôn mang theo hình ảnh đẹp nhất của Bác đang thanh thản, mỉm cười dưới ánh trăng. “Người sẽ mãi là vị Cha già kính yêu của dân tộc.”


2. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Rằm tháng giêng

Dàn bài:

Mở bài: Giới thiệu bài thơ Rằm tháng giêng về hoàn cảnh sáng tác, nội dung, ý nghĩa.

Thân bài:

– Cảnh thiên nhiên: Cảnh bát ngát, mênh mông và thật nên thơ.

+ Hình ảnh trăng “lồng lộng”, lung linh.

+ Mây trời hòa trộn vào nhau. Sông, nước, trời, thiên nhiên kết hợp một sắc “xuân”, lại cả ánh trăng nữa, cảnh thật đẹp và huyền ảo.

+ Từ “xuân” được lặp lại ba lần làm nổi bật sức sống mãnh liệt của đất trời.

– Con người và việc quân :

+ Trong không gian đẹp ấy, con người hiện lên với việc dân việc nước. Bác và các chiến sĩ có tấm lòng yêu nước, phải bàn bạc việc quân trong đêm để tránh sự theo dõi của quân địch.

+ Kết thúc bài thơ lại là hình ảnh thiên nhiên tuyệt vời, ánh trăng “ngân đầy thuyền”. Hình ảnh đẹp, thơ mộng như vậy làm ta thật khâm phục tâm hồn tinh tế, tình yêu thiên nhiên của Bác.

– Tâm trạng nhà thơ:

– Đặc sắc nghệ thuật:

Kết bài: Tổng kết lại bài thơ về 2 nội dung chính : thiên nhiên và con người.

Bài tham khảo:

Rằm tháng Giêng năm 1948, trên chiếc thuyền neo đậu giữa một dòng sông ở chiến khu Việt Bắc, Hồ Chủ tịch cùng Trung ương Đảng và Chính phủ mở cuộc họp tổng kết về tình hình quân sự thời kì đầu kháng chiến chống Pháp (1947 – 1948). Cuộc họp tan thì đêm đã khuya. Trăng rằm tỏa sáng khắp mặt đất bao la. Cảnh sông núi trong đêm càng trở nên đẹp đẽ và thơ mộng. Cảm hứng dâng cao, Bác đã ứng khẩu làm bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, tựa là Nguyên tiêu:

Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân sang xuân thủy tiếp xuân thiên.
Yên ba thâm xứ đàm quân sự,
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.

Sau đó, nhà thơ Xuân Thủy dịch bài thơ ra tiếng Việt dưới thể lục bát, với tên là Rằm tháng Giêng. Bản dịch giữ được gần hết ý thơ trong nguyên tác với nội dung thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu nước thiết tha của Bác Hồ.

Nếu trong bài Cảnh khuya, Bác tả cảnh trăng đẹp chốn rừng sâu thì ở bài này, Bác tả cảnh trăng trên sông nước:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân.

Vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng bát ngát khắp bầu trời, mặt đất trong đêm Nguyên tiêu. Khung cảnh mênh mông, tưởng như sông nước tiếp liền với bầu trời: Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân. Vạn vật ăm ắp sức xuân: sông xuân, nước xuân và trời xuân nối tiếp, giao hòa, tạo nên một vũ trụ căng đầy sức sống, làm náo nức lòng người. Điệp từ xuân được lặp lại nhiều lần với ý tạo vật cùng lòng người đều phơi phới khí thế tươi vui.

Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Trên một chiếc thuyền thu nhỏ giữa chốn mịt mù khói sóng (yên ba thâm xứ), Bác cùng Chính phủ và Trung ương Đảng luận bàn việc quân, việc nước. Công việc trọng đại đến chừng nào, nhất là trong hoàn cảnh buổi đầu kháng chiến đầy thiếu thốn, gian khổ.

Tuy vậy, gian khổ không làm vơi đi cảm xúc, thi hứng trong lòng Bác. Buổi họp kết thúc vào lúc nửa đêm. Trăng tròn vành vạnh treo giữa trời (nguyệt chính viên) đang tỏa sáng. Cảnh sông nước trong đêm lại càng thêm thơ mộng.

Dòng sông trở thành dòng sông tẳng và con thuyền cũng dường như trở đầy ắp ánh tẳng (trăng ngân đầy thuyền). Trước đêm trăng đẹp, tâm hồn Bác lâng lâng. Bác thả hồn hòa nhập với thiên nhiên mà Bác vốn coi là một người bạn tri âm, tri kỉ. Trong lòng Bác dâng trào một niềm vui, niềm tin vào thắng lợi của Cách mạng, của kháng chiến.

Hình ảnh con thuyền trở đầy ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông trăng là một hình ảnh lãng mạn có ya nghĩa tượng trưng sâu sắc. Phải có một phong thái ung dung tự tại và niềm lạc quan mãnh liệt vào tương lai thì nhà thơ mới sáng tạo ra được hình tượng nghệ thuật độc đáo trong một hoàn cảnh đặc biệt như vậy.

Bài thơ Rằm tháng Giêng với âm hưởng khỏe khoắn, tươi vui đã đem lại cho người đọc cảm xúc thanh cao, trong sáng. Bài thơ là dẫn chứng tiêu biểu chứng minh Bác Hồ vừa là một lãnh tụ cách mạng tài ba, vừa là một nghệ sĩ có trái tim vô cùng nhạy cảm.

Bài tham khảo 2:

Rằm tháng Giêng là một trong bài thơ hay và đặc sắc nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh được viết năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1947-1948). Giữa cảnh núi rừng về đêm, những người chiến sĩ dường như đã trở nên mỏi mệt, Bác đã tả cảnh đẹp bao la ấy bằng những tình yêu nước tha thiết của Bác ở ngay trong rằm tháng Giêng:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Giữa núi rừng bao la, từ cảnh đẹp của chốn rừng xanh nước biếc, Bác đã có những vần thơ tả cảnh cảnh. Nếu như ở trong Cảnh khuya Bác làm bạn với ánh trăng, với non nước thì trong Rằm tháng Giêng, Bác lại được hòa mình vào chốn khung cảnh núi rừng:

Rằm xuân lồng lộng trăng soi,
Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân

Trong đêm Nguyên Tiêu, Bác đã khắc tả hình ảnh vầng trăng tròn đầy, lan tỏa ra khắp cánh rừng già, tưởng chừng đang ngủ quên thì bây giờ lại như bừng tỉnh giấc bởi vầng trăng già.

Sông xuân nước biếc, cảnh rừng già đang từng thức giấc, một bầu trời xuân, một dòng sông xanh, cánh rừng già không chỉ mang một màu u ám, mà ngược lại, cảnh sắc khung trời của mùa xuân đã tô điểm thêm cho màu trời, màu của trời xuân, tạo nên một mối quan hệ làm nao nức lòng người giữa con người và cảnh vật thiên nhiên nơi đây, đây không chỉ là sự tương tác giữa người với thiên nhiên mà bây giờ, con người với thiên nhiên đang hòa làm một.

Điệp từ xuân đã được tác giả nhấn mạnh để có thể làm lên dụng ý của tác giả. Nhưng dù cảnh có đẹp đến đâu, thì Bác vẫn không thể nào quên được việc nước, việc quân – đó là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn Dân:

Giữa dòng bàn bạc việc quân,
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.

Chỉ trên một con thuyền nhỏ, nhưng lại chứa nhiều việc lớn, Bác cùng với Chính phủ và Trung ương Đảng đã bàn luận việc nước, việc quân, dù còn nhiều khó khăn, gian khổ nhưng những con người ngồi trên chiếc thuyền nhỏ, đơn sơ ấy vẫn đang giữ vừng niềm tin, niềm tin vào một con đường, một lý tưởng cách mạng cao đẹp.

Buổi họp được kết thúc vào lúc nửa đêm, tâm hồn của Bác và các những chiến sỹ lại hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên, khiến cho dòng sông và con thuyền được chở đầy ánh trăng, phải chăng tâm hồn những người chiến sĩ, những người con của đất nước cũng đang được ánh trăng lấp đầy.

Phải chăng người bạn tri kỷ của Bác – ánh trăng lại luôn nhớ về người bạn tri âm tri kỷ của mình. Trăng luôn đồng hành với Bác, không chỉ trong những cảnh đêm thanh vắng, những đêm Bác mất ngủ mà trăng còn luôn đồng hành khi Bác ở trong tù – một nơi lạnh lẽo và cũng rất đơn độc.

Nhưng với phong thái của một người chiến sĩ cách mạng và một tâm hồn phong phú, ung dung tụ tại, hình ảnh ánh trăng, những hình ảnh, những lỗi lo lắng của Bác như đã được hòa quyện vào nhau. Trái tim của người nghệ sĩ, người chiến sĩ cách mạng như đã bị rung động, đã bị thu hút bởi cảnh sắc thiên nhiên của nơi đây, một nơi thấm đậm tình cảm và tình yêu quê hương đất nước phong phú.

Bài thơ kép lại nhưng những âm hưởng tươi mới, tâm hồn yêu cái đẹp và muốn hưởng thụ cái đẹp của thiên nhiên, để con người có thể đắm mình trong những vẻ đẹp ngây ngất thì sẽ còn mãi – một vẻ đẹp thanh cao, một trái tim luôn thấm đượm tình yêu quê hương, đất nước.

Bài tham khảo 3:

“Rằm tháng giêng” là một trong những bài thơ hay nằm trong chùm thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh được Người sáng tác ở chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài thơ đã để lại trong em nhiều ấn tượng đẹp đẽ về khung cảnh thiên nhiên Việt Bắc cũng như tâm hồn, tình cảm của Người.

Đọc bài thơ, trước hết em vô cùng thích thú vì được chiêm ngưỡng khung cảnh đêm rằm tháng giêng trên sông qua ngòi bút tài hoa của Hồ Chí Minh:

“ Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên”

(Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn bầu trời thêm xuân)

Câu mở đầu bài thơ đã khắc hoạ cảnh đêm rằm thật đẹp. Ba chữ: “ Nguyệt chính viên” giúp em hình dung một khung cảnh tràn ngập ánh trăng, trên bầu trời vầng trăng đang độ tròn nhất, sáng nhất. Thật tiếc, bản dịch thơ của Xuân Thuỷ mới chỉ gợi tả được một không gian chan chứa ánh trăng chứ chưa gợi tả hết được vẻ tròn đầy, sáng trong của vầng trăng đêm rằm. Không chỉ vẽ ra trước mắt người đọc cảnh đêm trăng huyền ảo, Hồ Chí Minh còn vẽ ra trước mắt ta một không gian đầy ắp sắc xuân qua câu thơ:

“ Xuân giang, xuân thuỷ tiếp xuân thiên”

Các hình ảnh: “ Xuân giang” “ Xuân thuỷ” “ Xuân thiên” được đặt liền nhau gợi một không gian vừa cao, vừa xa, vừa rộng làm em có cảm giác dòng sông, mặt nước như tiếp liền bầu trời. Từ “Xuân” lặp lại ba lần trong cùng một dòng thơ gợi sức sống mùa xuân tràn ngập không gian, đầy ắp vũ trụ.

Cảnh vừa thực lại vừa hư ảo làm em càng thấy say mê, thích thú. Nhưng thật tiếc làm sao! Lại một lần nữa, câu thơ dịch của Xuân Thuỷ đã bỏ bớt đi một từ: “ Xuân”nên phần nào làm giảm đi vẻ đẹp của câu thơ trong nguyên tác.

Đọc hai câu thơ đầu bài thơ: “Rằm tháng giêng” em chợt nhớ đến hai câu thơ trong bài : “ Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh :

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
(Cảnh khuya)

Cũng vẫn là cảnh đêm trăng song mỗi bài mang một vẻ đẹp riêng. ở bài: “ Cảnh khuya” là cảnh trăng trên rừng có âm thanh trong trẻo, vang xa của tiếng suối, có bóng trăng đan cài vào bóng cây, bóng hoa tạo thành một bức tranh nhiều tầng lớp, đường nét.

Còn ở bài: “Rằm tháng giêng” là cảnh đêm trăng nơi sông nước với không gian bát ngát khí xuân và lai láng ánh trăng. Cả hai bài thơ đều là những bức hoạ tài tình dưới ngòi bút tài hoa của Bác, đem đến cho em nhiều rung cảm sâu xa.

Em yêu thích bài thơ: “Rằm tháng giêng” không chỉ vì bài thơ tái hiện một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp làm mê luyến lòng người mà qua bài thơ em càng hiểu rõ hơn về tâm hồn tình cảm cao đẹp của Bác. Thấp thoáng trong bài thơ là hình ảnh một vị lãnh tụ luôn trăn trở cho vận mệnh nước nhà:

“Yên ba thâm sứ đàm quân sự”
(Giữa dòng bàn bạc việc quân)

Trước mắt em hiện ra hình ảnh một chiếc thuyền đang bồng bềnh giữa sông nước mịt mờ khói sóng . Trên thuyền, Bác và các cán bộ đang bàn bạc những công việc liên quan đến vận mệnh đất nước và đường lối kháng chiến. Đọc tới đây, em bỗng nhớ tới câu thơ của nhà thơ Thôi Hiệu đời Đường( Trung Quốc):

“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

Người xưa nhìn thấy khói sóng thì cảm thấy buồn, sầu, trống vắng, cô đơn còn Bác, ở nơi khói sóng, Người đang thao thức lo “nỗi nước nhà”. Nỗi niềm lo lắng cho dân cho nước ấy của Bác khiến em vô cùng xúc động, em lại càng thêm kính trọng và biết ơn Người.

Bên cạnh đó, em cũng đồng cảm với tình yêu thiên nhiên và khâm phục phong thái ung dung, lạc quan của Bác. Mặc dù cuộc kháng chiến còn nhiều khó khăn, gian khổ, mặc dù bận bịu biết bao công việc của đất nước vậy mà Bác vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và sáng tạo nên những dòng thơ đầy thi vị:

“Dạ bán qui lai nguyệt mãn thuyền”
(Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền)

Hình ảnh: “ Nguyệt mãn thuyền” là hình ảnh đẹp đầy lãng mạn, thể hiện trí tưởng tượng và liên tưởng vô cùng phong phú, độc đáo. Phải là một người có trái tim nhạy cảm, yêu thiên nhiên, có tâm hồn nghệ sĩ mới tạo nên hình ảnh thơ tuyệt đẹp đến thế!

Đọc tới đây, em bỗng tưởng tượng ra hình ảnh một con thuyền ăm ắp ánh trăng đang nhẹ nhàng trôi trên dòng sông xuân. ánh trăng tràn ngập khoang thuyền làm em liên tưởng tới khoang thuyền đầy ắp những chiến công rực rỡ mà quân và dân ta vừa thu được trong chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông trước đó.

Câu thơ đẹp và phơi phới niềm vui, niềm lạc quan bất tận khiến em càng đọc càng cảm thấy say mê và cảm phục Bác. Em lại nhớ tới câu thơ của nhà thơ Trương Kế:

“Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”
(Nửa đêm tiếng chuông chùa văng vẳng đến thuyền khách)
(Phong kiều dạ bạc- Trương Kế)

Con thuyền của nhà thơ Trương Kế dừng lại trên bến, hoàn toàn im ắng, tĩnh lặng trong màn sương khuya và ánh trăng tàn. Cảnh vật đượm nỗi u buồn. Hình ảnh con người khuất lẫn trong không gian mênh mang với nỗi buồn vương vấn.

Còn con thuyền của Bác, trong mịt mù khói sóng vẫn dào dạt niềm vui, niềm tin vào sự thắng lợi của Cách mạng. Hình ảnh thơ đầy sáng tạo đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn Bác: yêu thiên nhiên hòa quện với lòng yêu nước thiết tha, sâu nặng. Đó cũng là sự kết hợp hài hòa giữa tâm hồn nghệ sĩ với phẩm chất người chiến sĩ.

Yêu thích nội dung bài thơ “Rằm tháng giêng” bao nhiêu em lại càng ngưỡng mộ tài năng nghệ thuật của Bác được thể hiện trong bài bấy nhiêu. “Rằm tháng giêng” là bài thơ tiểu biểu cho phong cách thơ Hồ Chí Minh. Một phong cách độc đáo bởi có sự kết hợp hài hoà giữa cổ điển và hiện đại.

Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật, bút pháp miêu tả cổ điển và những thi liệu cổ, bài thơ không chỉ tái hiện một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, phảng phất hương vị Đường thi mà còn gửi gắm tâm hồn, tình cảm, phong thái của người Cách mạng.

Bài thơ đã khép lại song dư âm bài thơ như vẫn văng vẳng trong em. Đọc bài thơ, em càng thấy yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước, em càng thêm yêu quý và biết ơn Bác Hồ.


3. Cảm nghĩ về truyện Sự tích trầu cau

Cứ mỗi lần nhìn bà nhai trầu em lại nhớ đến câu chuyện Sự tích trầu cau. Đó là một câu chuyện rất hay, cho chúng ta một bài học đáng quý về tình cảm vợ chồng, anh em keo sơn gắn bó.

Truyện thật cảm động! Ngay từ đầu câu chuyện gây cho em sự ngạc nhiên, thích thú với các chi tiết hai anh em họ Cao giống nhau như đúc, chỉ hơn nhau một tuổi. Người đọc thấy yêu quý và cảm phục hai anh em họ Cao vì mới mười bảy tuổi, mười tám tuổi thì cha mẹ đã mất. Hai anh em von thương nhau lại càng yêu thương nhau hơn trước. Hai anh em đã được ông thầy họ Lưu dạy học và cho ở tại nhà. Với đức tính chăm chỉ học hành, họ được ông thầy họ Lưu yêu như con.

Lại một sự may mắn nữa đã đến, người anh đã lấy được vợ là cô con gái họ Lưu xinh đẹp, dịu dàng, ít ai sánh kịp. Em rất vui mừng và hồi hộp, không biết cuộc sống của hai anh em sẽ còn thay đổi như thế nào nữa? Em nghĩ rằng chắc hai anh em họ Cao sẽ rất hạnh phúc sống bên nhau.

Nhưng từ khi lấy vợ, tình cảm giữa hai anh em không còn thắm thiết như xưa nữa. Sau một sự hiểu lầm đáng tiếc vì hai anh em giống nhau quá, người anh lại càng hững hờ với em. Càng tức người anh bao nhiêu, em càng thương xót cho người em bấy nhiêu. Dường như chi tiết “hai anh em giống nhau như đúc” chính là điều thú vị nhất. Nó hấp dẫn người đọc từ đầu truyện và giờ đây, nó lại chia rẽ hai anh em.

Người em đáng thương vì quá buồn tủi đã bỏ nhà ra đi, khi chết biến thành một tảng đá. Phải chăng tảng đá đó là nỗi cô đơn, thể hiện sự trong trắng của người em? Người anh lẳng lặng đi tìm em, chết biến thành một cây không cành mọc thẳng lên bên tảng đá. Anh ta đã đánh mất tình anh em như đánh mất chính cánh tay của mình nhưng đến lúc chết, anh vẫn muốn được ở bên em.

Người vợ cũng đi tìm chồng, quá thương nhớ chồng nên nàng đã khóc vật vã, nàng chết biến thành một cây leo quấn chặt cái cây không cành như để tìm nơi nương tựa cho mình – một phụ nữ yếu đuôi quấn quýt bên chồng. Cái chết đầy đau thương cùng với yếu tố kì ảo hoang đường đã khiến người đọc cảm động và thương xót cho ba người.

Em cảm phục ba người vì họ sống có tình có nghĩa, cho đến khi chết vẫn gắn bó với nhau. Nơi thế giới bên kia có lẽ họ đã đoàn tụ lại bởi biểu tượng hòn đá, cây không cành và cây dây leo vẫn quấn quýt bên nhau. Phải nói rằng sự biến hóa này là hết sức độc đáo và hợp lí.

Nó mang ý nghĩa giáo dục sâu xa. Người anh trước kia là trụ cột gia đình, bởi vậy anh ta đã biến thành cây không cành che chở cho cây dây leo và tảng đá em mình. Anh em, chị em, vợ chồng nương tựa và gắn bó với nhau mãi mãi. Tình nghĩa đó đã khiến vua Hùng đi qua chôn ấy rất cảm động.

Tục ăn trầu cũng từ đó mà có. Ba yếu tố đá vôi, lá của cây leo và quả của cây không cành đã tạo nên một sắc thắm đó chính là tình người. Yếu tố kì ảo hoang đường trong truyện giúp em hiểu rõ ý nghĩa của ba cái chết. Câu chuyện được nhân dân viết lên để nói về những con người trên đất nước Việt

Nam. Người Việt Nam mong muốn anh em trong gia đình phải thương yêu, đùm bọc lẫn nhau và vợ chồng chung thủy gắn bó, không chỉ riêng nhưng câu chuyện dân gian mà cả trong những câu ca dao, tục ngữ nói về tình cảm, đó:

– Anh em như thể chân tay

Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần

– Râu tôm nấu với ruột bầu

Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon

Truyện Sự tích trầu cau để lại ấn tượng rất sâu sắc đối với em. Đây không chỉ là một truyện cổ tích rất hay mà còn là một bài học đáng quý cho em và cho tất cả mọi người. Nó cũng giúp em hiểu rõ hơn vê một nét đẹp văn hóa mang tính truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đó chính là tục ăn trầu.


4. Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của nhà thơ Lí Bạch

Thơ xưa thường hay nói đến thiên nhiên, thiên nhiên như 1 người bạn để thi nhân có thể chia sẻ tâm sự của mình hoặc cũng có bài thơ viết lên chỉ để ca ngợi thiên nhiên. Thơ Lí Bạch cũng nhắc đến thiên nhiên, đặc biệt là trăng, trăng tràn ngập trong thơ Lí Bạch. Có những bài, trăng như người bạn cung vui chơi với Lí Bạch còn có những bài ánh trăng như là cái cớ để ông bày tỏ tâm sự, nỗi lòng của mình và bài thơ Tĩnh dạ tứ là 1 bài như thế.

Điều đó được thể hiện ngay ở nhan đề bài thơ. Bài thơ có tựa đề là Tĩnh dạ tứ tức là những suy nghĩ trong 1 đêm rất đẹp, trên trời ánh trăng toả sáng khắp nơi, một thứ ánh sang lung linh huyền ảo vag chính trong khung cảnh thiên nhiên ấy trong lòng Lí Bạch bỗng trào dâng lên nỗi nhó quê hương. Toàn bộ bài thơ là cảm xúc chân thành thiêt tha của tác giả. Ở hai câu thơ đầu:

Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phư sương

Đọc hai câu thơ này, cảm giác đầu tiên đến với ta đó là sự yên tĩnh, vắng lặng và thời gian lúc này như đã khuya lắm rồi, tất cả như đang chìm sâu vào giấc ngủ, chỉ có ánh trăng âm thầm thực hiện nhiệm vụ của mình. Ánh trăng tràn vào nhà, soi rọi khắp nơi.

Ánh trăng bàng bạc ấy khiến ông ngỡ như là sương đang la đà trên mặt đất. Hình ảnh ấy gợi cho người đọc 1 cảm giác cô đơn và trống vắng. Phải chăng trong lòng thi nhân đang chất chứa 1 nỗi niềm tâm sự, bởi vậy nên ánh trăng đẹp như vậy mà ông cứ ngỡ như mặt đất phủ sương. Đồng thời với sự “nhầm lẫn” ấy ta còn thấy tâm trạng ngỡ ngàng, bất ngờ của thi nhân trước khung cảnh thiên nhiên. Câu thơ thứ ba:

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Câu thơ này vẫn nói đến trăng, nói đến thiên nhiên nhưng từ “ngẩng” dường như không gợi cho ta cảm giác nhẹ nhàng thanh thản của người ngắm trăng mà đó là cái nhìn chất chứa tâm sự. Trong 3 câu thơ đầu, ta thấy tác giả nhắc nhiều đến thiên nhiên, đến trăng. Khung cảnh thiên nhiên ấy dẫu buồn nhưng vẫn gợi cho ta cảm giác đẹp, 1 vẻ đẹp huyền ảo, lung linh.

Nếu như ở 3 câu thơ đầu thi nhân nhắc nhiều đến trăng, điều đó khiến cho không ít người ngỡ rằng bài thơ chủ yếu nói về trăng nhưng đến câu thơ cuối tất cả bộc lộ ra rất rõ:

Cúi đầu nhớ cố hương

Chúng ta thấy câu thơ thứ 3 và câu thứ 4 đối nhau ở 2 tư thế “cúi” và “ngẩng”. Cái tình trong bài thơ đã bộc lộ rõ hơn. Rõ ràng đây là 1 bài thơ tả cảnh ngụ tình. Tâm trạng của nhà thơ đã thực sự bộc lộ đó là nỗi nhớ cồn cào quê hương. Như ta đã biết, thuở nhỏ Lí bạch thường lên núi Nga Mi múa kiếm cà ngắm trăng, khi lớn lên trở thành nhà thơ ông lại thường xa quê nay đây mai đó.

Thế nhưng dù cho năm tháng trôi qua thì tình cảm của ông đối với quê hương vẫn sâu đậm và tha thiết, chỉ cần nhìn ánh trăng thôi cũng đủ để gợi cho ông những cảm xúc dạt dào, tha thiết về chốn cũ. Và ánh trăng “đêm nay” đã khiến cho tâm hồn ông trĩu nặng nỗi nhớ quê, nhớ về nơi ông sinh ra, ở đó có những người thân của ông, nơi đó có biết bao kỉ niệm về những ngày thơ ấu, những năm tháng thăng trầm cua 1 đời người.

Như vậy, có thể thấy toàn bộ bài thơ cảnh và tình luôn song hành và gắn bó với nhau. Đối với Lí Bach thiên nhiên luôn là người bạn đồng hành vừa có thể cùng ông vui chơi nhưng cũng có khi lại là nơi để ông trút nỗi tâm sự của mình. Tâm hồn ông luôn tha thiết với thiên nhiên và chính tấm lòng ấy đã gợi cho LÍ Bạch những cái nhìn khá độc đáo về thiên nhiên, tứ thiên nhiên nhà thơ lại nhớ về quê hương thân yêu.

Có thể nói, những bài thơ của Lý Bạch đều thể hiện 1 tình yêu quê hương, đất nước chân thành, thiết tha. Trong đó bài thơ Tĩnh dạ tứ có thể được coi là 1 bài thơ viết về tình yêu quê hương hay nhất, bởi tác giả rất tinh tế lấy ngoại cảnh, thiên nhiên để biểu hiện nỗi nhớ quê của mình. Bài thơ rất ngắn gọn nhưng mang ý nghĩa sâu sắc, nhớ quê là tâm trạng chung của tất cả những người phải sống xa quê.


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Luyện nói: Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn học sgk Ngữ văn 7 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các bạn làm bài Ngữ văn tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com