Soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự sgk Ngữ văn 9 tập 1

Hướng dẫn Soạn Bài 10 sách giáo khoa Ngữ văn 9 tập một. Nội dung bài Soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự sgk Ngữ văn 9 tập 1 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, phân tích, cảm nhận, thuyết minh, nghị luận … đầy đủ các bài văn mẫu lớp 9 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn 9, ôn thi vào lớp 10.


I – TÌM HIỂU YẾU TỐ NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ

1. Câu 1 trang 137 sgk Ngữ văn 9 tập 1

Đọc các đoạn trích sau:

a) Chao ôi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương… Vợ tôi không ác, nhưng thị khổ quá rồi. Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu? Khi người ta khổ qua thì người ta chẳng còn nghĩ gì đến ai được nữa. cái bản tính tốt của người ta bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất. Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận.

(Nam Cao, Lão Hạc)

b) Thoắt trông nàng đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa ai mấy mặt trời mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”.
Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng liệu điều kêu ca.
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.
Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
Lòng riêng riêng những kính yêu,
Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai.
Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”.
Khen cho: “Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”.

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)


2. Câu 2 trang 138 sgk Ngữ văn 9 tập 1

Suy nghĩ và thực hiện các yêu cầu sau:

a) Nghị luận là nêu lí lẽ, dẫn chứng để bảo vệ một quan điểm, tư tưởng (luận điểm) nào đó.

Căn cứ vào định nghĩa này, hãy tìm và chỉ ra những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên.

b) Từ việc tìm hiểu hai đoạn trích, hãy trao đổi trong nhóm để hiểu nội dung và vai trò của yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự. Yếu tố nghị luận đã làm cho đoạn văn sâu sắc như thế nào?

(Gợi ý: Để thực hiện các yêu cầu trên, cần chú ý mấy điểm sau:

– Trong mỗi đoạn trích, nhân vật nêu ra những luận điểm gì?

– Để làm rõ luận điểm đó, người nói đã đưa ra luận cứ gì và lập luận như thế nào?

– Các câu văn trong đoạn trích trên thường là loại câu gì? (miêu tả, trần thuật, khẳng định, phủ định, câu ghép có cặp từ hô ứng: nếu…thì; không những…mà còn; càng…càng; vì thế…cho nên…)

– Các từ lập luận thường được dùng ở đây là gì? (tại sao, thật vậy, trước hết, sau cùng, nói chung, tóm lại, tuy nhiên,…)

Trả lời:

a) Những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích trên:

♦ Đoạn a): Đây là suy nghĩ nội tâm của ông giáo trong truyện Lão Hạc của Nam Cao

– Nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện…

– Vợ mình không ác nhưng thị khổ quá rồi.

– Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình.

– Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa.

– Mình biết vậy nên mình chỉ buồn nhưng không nỡ giận.

Nêu vấn đề: Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh thì ta luôn có cớ để tàn nhẫn và độc ác với họ.

♦ Đoạn b): Qua đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán, có thể thấy cuộc đôi thoại giữa Kiều và Hoạn Thư được diễn ra dưới hình thức nghị luận. Hình thức này rất phù hợp với một phiên tòa. Trước tòa án, quan trọng nhất là người ta phải trình bày lý lẽ, chứng lý, nhân chứng, vật chứng… sao cho có sức thuyết phục. Trong phiên tòa này, Kiều là luật sư buộc tội, còn Hoạn Thư là bị cáo. Mỗi bên đều có lập luận của mình.

b) ♦ Đoạn a): Luận điểm:

Nếu ta không cố tìm mà hiểu những người xung quanh mình thì ta chỉ thấy toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không bao giờ ta thương … Đây là luận điểm có tính chất đặt vấn đề.

Vợ tôi không ác, nhưng vì thị khổ quá rồi nên sinh ra ích kỉ, tàn nhẫn với người khác. Đây là luận điểm có tính chất phát triển lập luận, triển khai vấn đề nghị luận. Các luận chứng và lí lẽ được đưa ra: một người đau chân….; khi người ta khổ quá thì…

Tôi biết vậy, nên tôi chỉ buồn chứ không nỡ giận. Đây là luận điểm kết luận, kết thúc lập luận.

⟹ Với việc lập luận như trên, tác giả đã “kể được” câu chuyện về nỗi giằng xé, trăn trở, bi kịch bên trong con người; khẳng định về quan điểm nhìn nhận, đánh giá con người và cuộc đời. Đồng thời, phác ra được thực trạng nhân sinh cùng khổ trong bối cảnh xã hội đầu thế kỉ XX.

Về hình thức, đoạn văn trên chứa rất nhiều từ, câu mang tính lập luận. Đó là các câu hô ứng thể hiện các phán đoán dưới dạng nếu thì; vì thế… cho nên, sở dĩ… là vì; khi A… thì B… Các câu văn trong đoạn trích đều là những câu khẳng định, ngắn gọn, khúc chiết như diễn những chân lý.

♦ Đoạn b):

– Lập luận của Thúy Kiều:

+ Xưa nay, đàn bà có mấy người ghê ghớm, cay nghiệt như mụ

+ Càng cay nghiệt càng chuốc nhiều oan trái (Đây là kiểu câu khẳng định).

– Lập luận của Hoạn Thư:

+ Thứ nhất: mình là đàn bà, ghen tuông là chuyện bình thường.

+ Thứ hai: mình đã đối xử rất tôt với cô khi cô chép kinh ở “Quan Âm Các”.

+ Thứ ba: mình và cô đều là cánh chồng chung nên chẳng nhường cho nhau được …

+ Thứ tư: dù sao mình đã gây ra nhiều đau khổ cho cô, giờ đây mình chỉ còn trông vào lòng khoan dung rộng lớn của cô.

– Hình thức: Thúy Kiều sử dụng hình thức câu khẳng định, càng … càng ⇒ Khẳng định tội ác của Hoạn Thư.


II – LUYỆN TẬP

1. Câu 1 trang 139 sgk Ngữ văn 9 tập 1

Lời văn trong đoạn trích (a), mục I.1 là lời của ai? Người ấy đang thuyết phục ai? Thuyết phục điều gì?

Trả lời:

Lời văn trong đoạn trích a) mục I.1 là lời của ông giáo, ông giáo đối thoại với chính mình, thuyết phục chính mình, rằng vợ mình không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”.


2. Câu 2 trang 139 sgk Ngữ văn 9 tập 1

Ở đoạn trích (b) mục I.1, Hoạn Thư đã lập luận như thế nào mà nàng Kiều phải khen rằng: Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời? Hãy tóm tắt các nội dung lí lẽ trong lời lập luận của Hoạn Thư để làm sáng tỏ lời khen của nàng Kiều.

Trả lời:

Lập luận của Kiều thế hiện ở mấy câu đầu. Sau câu chào mỉa mai là lời đay nghiến: xưa nay đàn bà có mấy người ghê gớm, cay nghiệt như mụ, và xưa nay càng cay nghiệt thì càng chuốc lấy oan trái. Hoạn Thư trong cơn “hồn lạc phách xiêu” ấy vẫn biện minh cho mình bằng một đoạn lập luận thật xuất sắc. Trong 8 dòng thơ, Hoạn Thư nêu lên 4 ” luận điểm”:

– Thứ nhất: Tôi là đàn bà nên ghen tuông là chuyện thường tình (nêu một lẽ thường).

– Thứ hai: Ngoài ra tôi cũng đã đôi xử rất tốt với cô khi ở gác viết kinh; khi cô trốn khỏi nhà, tôi cũng chẳng đuổi theo (kể công).

– Thứ ba: Tôi với cô đều trong cảnh chồng chung, chắc gì ai nhường cho ai.

– Thứ tư: Nhưng dù sao tôi cũng đã trót gây đau khổ cho cô nên bây giờ chỉ biết trông chờ vào lượng khoan dung rộng lớn của cô (nhận tội và đề cao, tâng bốc Kiều).

Với lập luận trên, Kiều phải công nhận tài của Hoạn Thư là “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”. Và cũng chính nhờ lập luận ấy mà Hoạn Thư đã đặt Kiều vào một tình thế rất khó “xử”:

Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Nghị luận trong văn bản tự sự sgk Ngữ văn 9 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các bạn làm bài Ngữ văn tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com