Soạn bài Nói với con sgk Ngữ văn 9 tập 2

Hướng dẫn Soạn Bài 24 sách giáo khoa Ngữ văn 9 tập hai. Nội dung bài Soạn bài Nói với con sgk Ngữ văn 9 tập 2 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, cảm thụ, phân tích, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 9 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn 9, ôn thi vào lớp 10.


VĂN BẢN

NÓI VỚI CON

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Người đồng mình(1) yêu lắm con ơi
Đan lờ(2) cài nan hoa
Vách nhà ken(3) câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung(4) không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.

1980
(Y Phương(*), trong Thơ Việt Nam 1945 – 1985, Sđd)

Chú thích:

(*) Nhà thơ Y Phương tên khai sinh là Hứa Vĩnh Sước, dân tộc Tày, sinh năm 1948; quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Y Phương nhập ngũ năm 1968, phục vụ trong quân đội đến năm 1981 chuyển về công tác tại Sở văn hóa  – Thông tin Cao Bằng. Từ năm 1993, ông là Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng. Thơ ông thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ mà trong sáng, cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.

(1) Người đồng mình: người vùng mình, người miền mình. Đây có thể hiểu cụ thể là những người cùng sống trên một miền đất, cùng quê hương, cùng một dân tộc.

(2) Lờ: một loại dụng cụ dùng để đặt bắt cá, được đan bằng những nan tre vót tròn.

(3) Ken: làm cho thật kín bằng cách đệm thêm vào những chỗ hở. Người miền núi thường dùng nhiều tấm ván gỗ dựng chắc sát nhau thành vách nhà. Ken ở đây là động từ, được hiểu như đan cài, kết.

(4) Thung (thung lũng): dải đất trũng và kéo dài nằm giữa hai sườn đồi, núi.

Dưới đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Nói với con sgk Ngữ văn 9 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:


ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Bố cục: 2 phần

– Đoạn 1: Người cha nói với con về tình cảm cội nguồn.

– Đoạn 2: Người cha nói về truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm mong ước con sẽ kế tục những truyền thống đáng quý.

Nội dung chính: Bài thơ thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống, niềm tự hào về quê hương, dân tộc mình. Bài thơ giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc đến tình cảm đẹp đẽ với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.


1. Câu 1 trang 73 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Mượn lời nói của con, nhà thơ gợi về cội nguồn sinh dưỡng mỗi con người, gợi về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Bố cục của bài thơ đã thể hiện ý tưởng đó như thế nào?

Trả lời:

Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ niềm tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Bố cục của bài thơ thể hiện ý tưởng đó theo hai đoạn:

– Đoạn 1 (từ đầu đến câu “Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”): con lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ và quê hương.

– Đoạn 2 (còn lại): lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống cao đẹp của quê hương.

Theo bố cục, nhất là theo diễn biến tâm trạng của nhà thơ, có thể thấy nhà thơ đã mở rộng từ tình cảm gia đình đến tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống.


2. Câu 2 trang 73 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Con được lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, trong sự đùm bọc của quê hương. Hãy tìm và phân tích các câu thơ nói lên điều ấy.

Trả lời:

Con lớn lên trong tình thương của cha mẹ, trong sự đùm bọc của quê hương:

– 4 câu thơ đầu Chân phải…tiếng cười có những hình ảnh cụ thể, cách diễn đạt dường như vô ý song lại tạo ra sự độc đáo trong tư duy và cách diễn đạt người miền núi.

– Con người trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng, trữ tình của quê hương : người đồng mình, cài nan hoa, ken câu hát, rừng cho hoa…


3. Câu 3 trang 73 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Người cha nói với con về những đức tính cao đẹp gì của người “đồng mình”, từ đó nhắc nhở con trên đường đời cần phải như thế nào?

Trả lời:

Đức tính cao đẹp của người đồng mình:

– Những con người sống quanh năm vất vả mà mạnh mẽ và khoáng đạt biết bao nhiêu, những con người ấy luôn gắn bó với quê hương dẫu còn cực nhọc, đói nghèo.

– Tuy mộc mạc nhưng rất giàu chí khí, niềm tin, “người đồng mình” dù “thô sơ da thịt” nhưng nhất định không nhỏ bé về tâm hồn, về quyết tâm và mơ ước xây dựng quê hương.

⇒ Qua các đức tính ấy của người đồng mình” người cha dặn dò con hãy biết tự hào với truyền thông quẽ hương để tự tin vững bước trên đường đi tới.


4. Câu 4 trang 74 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Em cảm nhận như thế nào về tình cảm của người cha đối với con trong bài thơ? Điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con qua những lời này là gì?

Trả lời:

– Tình cảm của người cha: yêu thương, trìu mến, thiết tha và tin tưởng.

– Điều lớn lao nhất người cha muốn truyền cho con là lòng tự hào, sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, tự tin bước vào đời.


5. Câu 5 trang 74 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Nhận xét về cách diễn tả tình cảm và suy nghĩ bằng hình ảnh của nhà thơ. (Gợi ý: Người miền núi thường có cách nói giàu hình ảnh, cụ thể, mộc mạc mà có tính khái quát, giàu chất thơ. Chẳng hạn bốn dòng thơ đầu bài hay các câu: “Đan lờ cài nan hoa – Vách nhà ken câu hát”, “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương”…)

Trả lời:

Cách diễn tả tình cảm và suy nghĩ bằng hình ảnh của nhà thơ : từ ngữ, hình ảnh mộc mạc, có sức gợi tả, có tính khái quát mà giàu chất thơ, độc đáo và đậm chất dân tộc.


LUYỆN TẬP

Câu hỏi trang 74 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Đặt mình là nhân vật người con trong bài thơ, soạn một bài nói ngắn về cảm xúc, suy nghĩ của mình khi nghe lời cha nói với con.

Trả lời:

Luận điểm tham khảo:

– Lòng biết ơn của bản thân đối với gia đình và sự chở che của mảnh đất quê hương đã sinh thành, nuôi lớn em.

– Niềm tự hào sâu sắc với những truyền thống tốt đẹp của quê hương: chăm chỉ, cần cù, vượt lên mọi gian khổ, giàu sức sống.

– Suy nghĩ về bài học mà cha nói với con: phải luôn có ý chí vươn lên trong cuộc sống, khắc phục những khó khăn, không được nản lòng, nhụt chí.

– Tự nhủ sẽ luôn cố gắng để không phụ lòng gia đình và quê hương.

Bài tham khảo:

Cha kính yêu!

Cảm ơn cha vì tất cả. Nhận được thư cha gửi con càng hiểu ra rằng cha thương yêu con nhường nào. Tình yêu thương mà cha dành cho con tựa như lá của cây trong rừng, trong lành như con suối trong thung. Con lớn lên, khôn lớn trưởng thành như thế này là nhờ bàn nay nuôi nấng chăm sóc, quan tâm của cha mà thành. Cha dạy dỗ con những điều mà con người ta nên làm. Con sẽ sông như  lời cha dặn, sẽ cố gắng cống hiến sức mình cho quê hương, cho đất nước mình ngày càng tươi đẹp. Cha luôn bên cạnh con trên suốt chặng đường mà con bước. Ngày thơ bé cha và mẹ bên con nhìn con những bước đi chập chững vào đời, rồi dần con trưởng thành cha bên cạnh dạy dỗ chỉ bảo con thành người. Dưới sự chỉ bảo của cha, con hiểu được rằng:” rừng cho hoa”,” con người cho những tấm lòng”. Con hiểu rằng bản thân mình phải sống như thế nào để cống hiến hết mình vì Tổ quốc, quê hương. Cho dù đường đời có chông gai thế nào, con phải ” lên thác xuống gềnh” ra sao thì con vẫn sẽ luôn cố gắng làm mọi điều có thể, con sẽ không giục ngã trước thất bại. Cha, con nhất định sẽ làm được, con sẽ cố gắng hết để xây dựng quê hương, đất nước, báo ơn Tổ quốc.

Con yêu cha.


CÁC BÀI VĂN HAY

1. Phân tích bài thơ Nói với con của Y Phương

Bài tham khảo 1:

Tình cảm gia đình luôn là một chủ đề lớn, thu hút được sự quan tâm của các tác giả. Mỗi người có những khám phá, phát hiện riêng về chủ đề này, làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam. Góp một phần nhỏ bé nhưng cũng không kém phần đặc sắc đó là bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương. Tác phẩm là những lời nói chân thành của người cha với con, qua đó thể hiện được những triết lí, chiêm nghiệm sâu sắc của ông.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh của một đứa trẻ thật ngây thơ, đáng yêu với những bước chân chập chững: “Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ/ Một bước chạm tiếng nói/ Hai bước tới tiếng cười”. Nhưng câu thơ không chỉ dừng lại ở đó, mà sâu xa hơn tác giả muốn nói về cuội nguồn con được sinh ra là từ tình yêu thương của cha mẹ. Câu thơ với nhịp 2/3 thật nhịp nhàng, hài hòa kết hợp với biện pháp lặp cấu trúc, phép liệt kê “chân trái – chân phải”, “một bước – hai bước” “tiếng nói – tiếng cười”, tác giả đã tạo ra âm điệu vui tươi, quấn quýt, hòa hợp với nhau. Từng bước con đi luôn được cha mẹ quan tâm, chăm chút; từng tiếng con cười luôn là niềm vui, niềm hạnh phúc cho cha mẹ. Từ đó tác giả muốn hướng đến một điều cao cả hơn đó là con được sinh ra trong hạnh phúc và lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, gia đình là cái nôi ấm áp nuôi dưỡng mỗi chúng ta trưởng thành, khôn lớn.

Bảy câu thơ tiếp theo lại vẽ ra khung cảnh lao động tươi vui của người đồng mình, và con cũng được lớn lên trong chính tình đồng bào ấm áp, thuận hòa ấy. Cuộc sống của người đồng mình diễn ra hết sức vui tươi: Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát. Cách gọi người đồng mình thật giản dị, thân thương, đó là những người miền mình, sống cùng trên một mảnh đất quê hương. Với ngôn từ đậm màu sắc địa phương tác giả đã vẽ ra không khí lao động vui vẻ: những chiếc lờ bắt cá dưới đôi bàn tay khéo léo của họ tạo nên những bông hoa đẹp đẽ; vách nhà không chỉ được ken bằng tre nứa mà còn được làm từ những câu hát. Câu thơ không chỉ cho thấy sự tài hoa, khéo léo của người đồng mình mà còn thấy lối sống lạc quan, yêu đời của họ. Các động từ “cài, ken” đi kèm danh từ “nan hoa, câu hát” vừa cho thấy đôi bàn tay khéo léo vừa cho thấy cuộc sống ngập tràn niềm vui.

Thiên nhiên nơi đây luôn bao bọc, che chở cho con người, hai câu thơ vừa khái quát vừa có sức gợi lớn. Núi rừng quê hương không chỉ thơ mộng mà luôn tràn đầy tình nghĩa. Chính thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con cả về tâm hồn và lối sống. Quê hương đã cho con những gì tốt đẹp nhất để nuôi dưỡng con trưởng thành. Và đây chính là chiếc nuôi thứ hai nuôi con khôn lớn.

Người đồng mình không chỉ tài hoa, khéo léo mà còn mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp. Trước hết họ là người có ý chí, nghị lực kiên cường vượt qua mọi khó khăn: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”. Trong cuộc sống họ phải đối mặt với không ít gian nan, trắc trở nhưng họ luôn có ý chí, nghị lực để vượt qua mọi thử thách ấy. Câu thơ như một lời khẳng định: cuộc sống nhiều gian truân, vất vả chỉ rèn thêm ý chí, nghị lực cho con người. Họ còn có tấm lòng thủy chung với quê hương: “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/ Sống trong thung không chê thung nghèo đói”. Câu thơ vừa khẳng định vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình vừa như một lời dặn dò con phải luôn có lối sống thủy chung, tình nghĩa với quê hương. Họ còn sống phóng khoáng, lạc quan, điều này được tác giả khắc họa qua hình ảnh so sánh đặc sắc “sống như sông như suối” kết hợp với thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” gợi nên cuộc sống lao động đầy vất vả, thế nhưng họ vẫn “không lo cực nhọc” rất lạc quan, yêu đời. Họ tự tin, bản lĩnh, yêu đời và họ tự tay xây dựng lên phong tục, tập quán quê hương mình: “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương/ Còn quê hương thì làm phong tục”. Câu thơ đã cho thấy những công việc hàng ngày của họ thật dung dị nhưng chính nó làm nên nét phong tục, đặc trưng cho nơi đây. Bởi vậy câu thơ đã khái quát tinh thần tự tôn, ý thức xây dựng và phát triển, bảo vệ cuội nguồn của tác giả. Qua đó người cha mong muốn con hãy kế tục và phát huy truyền thống quê hương, hãy lấy đó làm hành trang để vững bước vào đời:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”

Hai tiếng “con ơi” vang lên thật trìu mến, tha thiết, dồn nén biết bao tin tưởng, hi vọng của người cha vào đứa con bé bỏng, đáng yêu. Lời nói như một lời cổ vũ, động viên con hãy cố gắng trên bước đường đời để ghi dấu ấn mình trong cuộc sống. Lời thơ còn mang ý nghĩa khái quát không chỉ là lời cha nói với con mà còn là lời trao gửi, động viên đến biết bao thế hệ.

Bài thơ được viết bằng giọng điệu thơ tha thiết, trìu mến. Xây dựng những hình ảnh cụ thể mà vẫn hết sức khái quát, chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mà sâu sắc vô cùng. Xây dựng bố cục thơ chặt chẽ, hợp lí, cách dẫn dắt tự nhiên, hấp dẫn.

Qua bài thơ tác giả đã khái quát được một thứ tình cảm thiêng liêng bất diệt trong mỗi con người đó là tình cảm gia đình mà rộng ra là niềm tự hào quê hương, đất nước. Chính những yếu tố này nâng bước, dìu dắt mỗi chúng ta trên đường đời đầy giông bão. Kết hợp với ngôn ngữ tự nhiên, giọng điệu chân thành đã tạo nên sức hấp dẫn và thành công cho tác phẩm.

Bài tham khảo 2:

Y Phương là nhà thơ dân tộc Tày, sinh và lớn lên ở vùng đất non cao, với tư duy mộc mạc, giản dị những vần thơ của ông cũng chân thành như chính tâm tư, tình cảm của con người nơi đây. Nhắc đến Y Phương là nhắc đến bài thơ Nói với con nổi tiếng về tình cảm gia đình thiêng liêng sâu nặng

Nói với con được Y Phương sáng tác khi đứa con đầu lòng của ông ra đời. Bởi vậy bài thơ chứa đựng niềm hạnh phúc dạt dào của một người lần đầu được làm cha. Không chỉ vậy, bài thơ còn cho thấy ý thức của người cha muốn vun đắp, muốn cho con hiểu rõ cội nguồn của bản thân và luôn tự hào về nơi mình sinh ra.

Trước hết, bài thơ cho người con thấy nguồn cội mình được sinh ra chính là tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của những người đồng mình.

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười

Bằng những hình ảnh hết sức cụ thể cùng với đó là việc lặp cấu trúc, phép liệt kê Y Phương đã tạo ra âm điệu tươi vui, quấn quýt, hòa hợp trong một gia đình nhỏ đầy ắp hạnh phúc. Đồng thời bốn câu thơ xuất hiện nối tiếp qua các động từ “bước, chạm, tới” và cái đích đến của người con là hai chữ thật giản dị mẹ – cha . Điều giản dị ấy phải chăng bộc lộ ý nghĩa thật lớn lao và thiêng liêng: với mỗi người mẹ cha là đích đến, là nơi để ta tìm về, là nơi để ta bước tiếp, là chốn bình yên để ta nương tựa sau những giông bão cuộc đời.

Không chỉ vậy còn còn được lớn lên trong sự cưu mang, đùm bọc của bản làng thôm xóm: “Đan lờ cài nan hoa/…/Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”. Cách gọi thật dung dị, mộc mạc: “người đồng mình” thể hiện tình cảm thân thương, trìu mến của người dân tộc Tày. Đó là những người vùng mình, miền mình. Chỉ với vẻn vẹn bảy câu thơ nhưng Y Phương đã cho người đọc thấy cuộc sống lao động cần cù, vui tươi của họ, họ đan lờ bằng nan hoa, ken vách nhà bằng những câu hát. Người đồng mình yêu lao động, yêu cái đẹp và biết cách làm cho cuộc sống của mình trở nên vui tươi, vậy nên, trong nhà họ lúc nào cũng vang câu hát. Và thiên nhiên mơ mông, đầy tình nghĩa đã che chở, nuôi dưỡng con cả về tâm hồn, lối sống. Quê hương đã cho con những gì tốt đẹp nhất, chiếc nôi thứ hai nuôi con khôn lớn.

Y Phương không chỉ cho con biết về cuội nguồn mình được sinh ra mà còn dạy con để con biết, tự hào về những đức tính tốt đẹp của người đồng mình:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Còn quê hương thì con phong tục”.

Người đồng mình hội tụ biết bao phẩm chất tốt đẹp, đáng tự hào. Họ giàu ý chí nghị lực, kiên cường, bền bỉ. Những khó khăn, trắc trở, vất vả mà người đồng mình phải trải qua trong cuộc sống là rất nhiều, nhưng đó chỉ là thử thách để rèn rũa bản lĩnh của họ. Câu thơ cô đúc, có sức khái quát cao thể hiện sự thấu hiểu và đồng cảm với cuộc sống của con người miền núi. Dù cuộc sống có vô vàn những khó khăn, nhưng họ vẫn một lòng thủy chung với quê hương. Điệp từ “sống” lặp lại như lời căn dặn của cha về lẽ sống ở đời đồng thời gợi sức sống mãnh liệt của con người trước gian truân. Và người cha cũng mong con luôn thủy chung, tình nghĩa với làng bản, quê hương. Đặc biệt hình ảnh so sánh “như sông như suối” khắc họa lối sống khoáng đạt của con người nơi đây, thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” lại gợi nên cuộc sống lao động đầy vất vả. Thế nhưng họ vẫn rất lạc quan, yêu đời. Câu thơ là lời khẳng định, ngợi ca của cha về vẻ đẹp của người đồng mình: họ luôn sống mạnh mẽ gắn bó thiết tha với quê hương dù phải trải qua bao khó khăn, cực nhọc. Từ đó người cha muốn: con sống mạnh mẽ vượt lên mọi ghềnh thác cuộc đời bằng ý chí, nghị lực của mình. Cùng với đó là ý chí kiên cường tự lực xây dựng quê hương giàu đẹp, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Không chỉ vậy người đồng mình còn có những phẩm chất tốt đẹp khác khiến người cha rất đỗi tự hào. Đó là mộc mạc, giàu chí khí, niềm tin. Họ có thể thô sơ, giản dị về vẻ bề ngoài nhưng lại không hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí. Bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại hàng ngày người đồng mình đã làm nên quê hương với những phong tục tập quán tốt đẹp. Từ đó người cha mong muốn con kế tục và phát huy truyền thống quê hương, sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của người đồng mình. Và hãy lấy đó làm hành trang để tự tin vững bước vào đời.

Lời cha dặn dò vừa đầm ấm, vừa cương quyết, cặn dặn con dù có vẻ ngoài thô sơ nhưng không được nhỏ bé về ý chí, nghị lực; không bao giờ được sống tầm thường. Lời động viên, căn dặn đó đã tiếp thêm sức mạnh để con tự tin để vững bước vào đời.

Bằng ngôn ngữ mộc mạc, lối tư duy giản dị, nhưng lời thơ có ý nghĩa vô cùng sâu sắc với người con. Những lời nói đó như một hành trang vững chắc để con vững bước vào đời. Không chỉ vậy, lời thơ còn mang ý nghĩa thầm kín không chỉ lời cha nói với con mà là lời trao gửi đến biết bao thế hệ.

Bài tham khảo 3:

Viết về tình cảm gia đình, niềm tự hào đối với quê hương và sự ước vọng của mẹ cha dành cho con cái, muốn con khôn lớn trưởng thành là một trong những chủ đề được trở đi trở lại nhiều lần trong suốt chiều dài nền văn học. Ta có thể bắt gặp hình ảnh người mẹ Tà ôi địu con lên rẫy hát ru con thấm đượm nghĩa tình cách mạng trong bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm hay đó là hình ảnh người mẹ đưa nôi hát ru con với lời ru ngọt ngào, tha thiết trong bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên… Mỗi nhà thơ, bằng sự trải nghiệm và tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim, hòa cùng những rung cảm mãnh liệt của nghệ thuật đã diễn tả thật hay, thật độc đáo, mới mẻ về những tình cảm thiêng liêng, cao đẹp ấy. Y Phương – một nhà thơ dân tộc Tày, với một phong cách thơ hồn nhiên, trong sáng, chân thật, giàu hình ảnh cũng đã góp mình vào chủ đề đó qua bài thơ “Nói với con” (1980). Bài thơ là lời tâm tình sẻ chia của người cha dành cho con với niềm hi vọng người con sẽ tiếp nối, phát huy được những phẩm chất truyền thống cao đẹp, quí báu của “người đồng mình”, làm cho quê hương, dân tộc mình ngày một vững mạnh hơn.

Trước hết, mở đầu bài thơ là lời tâm tình của người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng: con lớn lên bởi tình yêu của cha mẹ và quê hương. Đầu tiên, người cha nói về tình cảm gia đình – cái nôi đầu tiên nuôi dương người con khôn lớn trưởng thành:

“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”

Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu tính chất tạo hình ” chân phải”, “chân trái”, “tiếng nói”, “tiếng cười”, nhà thơ đã dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh của một em bé đang chập chững tập đi và bi bô tập nói bên cạnh cha mẹ. Từ đó, Y Phương gợi tả được không khí gia đình thật ấm áp, hạnh phúc, tràn ngập tiếng cười nói của trẻ thơ. Đồng thời nhà thơ đã cho người đọc thấy được từng bước đi, từng tiếng cười nói của con đều được cha mẹ nâng niu, chăm sóc, mong chờ. Đó là tình cảm gia đình ruột thịt, là công lao trời bể lớn lao và thiêng liêng mà cha mẹ dành cho con cái, muốn người con luôn phải khắc cốt ghi tâm.

Bên cạnh tình cảm gia đình, người cha muốn nói cho con biết về cội nguồn sinh dưỡng rộng lớn hơn đó là tình làng,quê hương nghĩa xóm:

Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.

Với cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi, nhà thơ Y Phương đã miêu tả thật chân thực, sinh động cuộc sống lao động thật nghĩa tình và thơ mộng của “người đồng mình”. “Người đồng mình” là để chỉ những người vùng mình, miền mình, những người cùng sống trên một miền đất, quê hương, cùng dân tộc. Câu thơ sử dụng từ ngữ hô gọi “con ơi” kết hợp với từ tình thái “yêu lắm” làm cho lời thơ trở nên ngọt ngào, chan chứa niềm tự hào với tình yêu thương quê hương da diết. Cuộc sống lao động cần cù và vui tươi của “người đồng mình” được gợi lên qua một số những hình ảnh rất cụ thể, giàu sức gợi: “đan lờ” – dụng cụ đánh bắt cá của người dân miền núi, dưới bàn tay khéo léo đã thành “cài nan hoa”; những ngôi nhà sàn không chỉ được dựng lên bằng những tấm ván gỗ mà còn được tạo nên bởi những “câu hát” – chiều văn hóa, lối sống của “người đồng mình”. Những động từ “đan”, “cài”, “ken” vừa có tác dụng diễn tả những động tác lao động; lại vừa cho thấy những phẩm chất cần cù, chịu khó, yêu lao động, yêu cuộc sống, chan chứa niền vui của những bàn tay khéo léo, tài hoa của người dân miền núi.

Cũng nói về quê hương, người cha còn nhắc tới “rừng núi” và những “con đường” của “người đồng mình”:

Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.

Rừng không chỉ cho gỗ, cho măng tre mà còn cho cả “hoa”. “Hoa” là sản phẩn của thiên nhiên, là sự kết hợp những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất, lãng mạn nhất của trời và đất mà rừng núi quê hương đã ban tặng cho con người nơi đây. Còn “con đường” là sợi dây liên kết gắn bó, chặt chẽ của những “người đồng mình”. Những “con đường” ấy được tạo nên bởi những “tấm lòng” nhân hậu, bao dung. Đó là con đường ra thung ra suối, con đường vào làng vào bản, con đường tới trường, tới lớp, con đường ra ruộng, ra đồng… Chính những con đường đó đã gắn bó tình đoàn kết của những con người nơi đây. Như vậy, thiên nhiên rừng núi không chỉ ban tặng cho con người cái đẹp của tạo hóa mà còn che chở, nuôi dữơng con người cả về tâm hồn, lối sống.

Từ tình cảm quê hương, người cha đột ngột chuyển sang nói với con về tình cảm riêng tư của “ngày cưới”:

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Không ít người đã thắc mắc về sự chuyển biến đột ngột này. Y Phương chia sẻ: tình cảm của những đôi trai gái, của cha mẹ được nảy nở, bắt nguồn từ tình yêu đối với quê hương, tình yêu đối với cuộc sống lao động. Như vậy, nhà thơ quan niệm: khi con người sống gắn bó với quê hương, với lao động thì con người sẽ tìm được tình yêu, hạnh phúc. Vì thế, người con từ đó được ra đời không chỉ là xuất phát từ sự kết tinh tình yêu của cha mẹ mà còn xuất phát từ là tình cảm rộng lớn của quê hương. Và quê hương đã cho con nghĩa tình, đã bao bọc, chở che con ngay từ khi bắt đầu con cất tiếng khóc chào đời.

Từ việc nhắc lại cội nguồn sinh dưỡng ở khổ đầu, đến khổ hai, người cha tiếp tục ngợi ca những đức tính cao đẹp của người đồng mình, gợi cho con lòng tự hào về quê hương, dân tộc, dặn dò con cần phát huy và sống thật xứng đáng với truyền thống của quê hương mình:

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.

Câu thơ đầu được điệp lại “Người đồng minh thương lắm con ơi” nhưng đã có sự thay đổi chút ít. Nếu như câu thơ ở khổ đầu là “yêu” tức là xuất phát từ tình cảm chân thành, từ trái tim tha thiết thì đến câu thơ ở khổ hai này lại là: “thương”. “Thương” là một trạng thái tình cảm không chỉ xuất phát từ trái tim yêu thương chân thành nữa mà còn gói gém cả sự sẻ chia, đồng cảm ở trong lòng. Chính vì thế, “người đồng mình” – những con người cùng miền đất, quê hương, dân tộc cùng chí hướng đã đoàn kết, gắn bó, sẻ chia và đồng cảm với nhau mà dựng xây quê hương mình trở nên ngày một giàu đẹp hơn.

Hai câu tiếp: Sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, kiên cường của “người đồng mình”. Nghệ thuật đối lập tương phản: ” cao đo – xa nuôi”, “nỗi buồn – chí lớn”, tác giả đã diễn tả những trạng thái khác nhau của “người đồng mình”. “Nỗi buồn – chí lớn” là khái niệm vô hình nhưng đã được tác giả hình dung cụ thể như có hình, có khối. “Người đồng minh” buồn, lo lắng, khắc khoải ở trong lòng vì trước mắt họ là biết bao nhiêu là khó khăn, gian nan thử thách; khi mà cả quê hương họ còn chưa vươn tới được tầm cao nhân văn, vẫn còn quanh quẩn với cái đói, cái nghèo. Nhưng “Người đồng mình” không bao giờ nhụt chí, mạnh mẽ, vững vàng đối diễn với những khó khăn, thách thức ấy mà đưa quê hương tiến lên phía trước, trở nên giàu mạnh, phát triển, văn mình. Câu thơ giản dị , mộc mạc những đã diễn tả được tinh thần, ý chí quật cường, mạnh mẽ của người dân vùng cao.

Niềm tự hào về con người quê hương gắn liền với những phẩm chất quí báu mà người cha muốn truyền cho con:

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.

Nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những hình ảnh để nói tới cuộc sống của người miền núi như: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” “lên thác xuống ghềnh” có ý nghĩa diễn tả những khó khăn, vất vả, nghèo đói và nhọc nhằn mà họ đã và đang phải đương đầu. Điệp ngữ “sống … không chê” (2 lần), kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập và biện pháp so sánh “như sông như suối” có tác dụng diễn tả sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, bền bỉ của những người con miền núi cao trước cuộc sống khó khăn, vất vả khi mà chiến tranh lùi xa không được bao lâu. Qua đó, nhà thơ thể hiện niềm tự hào về “người đồng mình” với sức mạnh, ý chí thật phóng khoáng, đoàn kết, gắn bó thiết tha của họ đối với nơi chôn rau cắt rốn của mình. Từ đó, người cha mong muốn con: phải sống có tình, có nghĩa, thủy chung với quê hương, đất nước, dân tộc mình; biết chấp nhận và sẵn sàng vượt qua những khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin tất thắng.

Đến bốn câu thơ tiếp theo mạch tâm tình nhắn nhủ của người cha dành cho con vẫn được tiếp nối nhưng đã chuyển sang giọng điệu triết lí sâu sắc:

Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.

Nghệ thuật đối lập tương phản: giữa ngoại hình và tâm hồn. Hình ảnh “thô sơ da thịt” diễn tả vẻ đẹp mộc mạc, bình dị, chân chất, khẳng khái của “người đồng mình”. Nhưng họ không hề “nhỏ bé” về tâm hồn mà rất giàu lòng tự trọng, giàu chí khí, niềm tin cao đẹp với khát vọng dựng xây, phát triển quê hương. Muốn vậy, “người đồng mình” phải lao động:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.

Câu thơ có hai lớp nghĩa tả thực và ẩn dụ. Và tác giả đã miêu tả cuộc sống lao động của họ qua cụm từ “tự đục đá” thường thấy của người dân miền núi cao. Công việc của họ rất vất vả, nặng nhọc nhưng họ sẵn sàng tự nguyện làm vì sự phát triển của quê hương mình. Nhưng hình ảnh “kê cao quê hương” còn là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc của “người đồng mình”. Chính những con người cần cù, nhẫn nại, bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương, làm nên phong tục tập quán lâu đời tốt đẹp của dân tộc.

Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ, dặn dò người con phải tự hào về truyền thống quê hương, lấy những tình cảm ấy làm hành trang bước vào đời:

Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.

Hình ảnh “thô sơ da thịt” được lặp lại lần hai có tác dụng khẳng định và nhấn mạnh lại niềm mong muốn của người cha dành cho con: Người đồng mình tuy mộc mạc, chân chất, bình dị, bộc trực, khẳng khái nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, luôn vươn tới những lẽ sống cao đẹp. Vì thế, trên đường đời, con phải thật tự tin, tự hào về quê hương, sống xứng đáng với “người đồng mình”, không cúi đầu trước giông tố khó khăn, vất vả ở phía trước. Bởi đằng sau con luôn có tình cảm chở che, nâng đỡ của cha mẹ, gia đình, của quê hương và đặc biệt trong bản thân con chất chứa phẩm chất quí báu của “người đồng mình”. Hai tiếng “nghe con” ở cuối bài thơ chứa đựng biết bao nhiêu là yêu thương và niềm tin của người cha dành cho con, nhẹ nhàng, xao xuyến.

Tóm lại, bằng bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên, bằng những hình ảnh cụ thể mà vẫn giàu chất thơ, “Nói với con” đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Điều lớn lao nhất mà người cha truyền đến được cho con chính là lòng tự hào về quê hương và niềm tự tin khi bước chân vào đời. Khi biết tự hào một cách chính đáng thì sẽ có lòng tự tin vững chắc. “Lên đường/ Không bao giờ nhỏ bé được / Nghe con” – bài thơ là lời nhắc nhở thấm thía mỗi con người về nghĩa tình gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.


2. Cảm nhận của em về bài thơ Nói với con của Y Phương

Ca dao từng có câu: “Công cha như núi Thái Sơn”. Có phải vì vậy mà người cha luôn khao khát những đứa con có được sự vững vàng, rắn rỏi mạnh mẽ trên đường đời. Qua bài thơ Nói với con của Y Phương, người đọc nhận thấy tình cảm và mong ước của một người cha như vậy dành cho con, một thứ tình cảm nồng ấm và thiêng liêng, giản dị. Bài thơ đồng thời cũng gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về trách nhiệm của người làm con.

Mượn lời một người cha nói với con, bài thơ gợi về cội nguồn của mỗi con người, đồng thời bộc lộ niềm tự hào trước sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình. Nhà thơ đã mở rộng từ tình cảm gia đình đến tình cảm quê hương, từ những kỷ niệm gần gũi, thiết tha mà nâng lên thành lẽ sống.

Mở đầu bài thơ bằng những hình ảnh cụ thể, Y Phương đã tạo được không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt. Từng bước đi, từng tiếng nói tiếng cười của con được cha mẹ mừng vui đón nhận:

“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”

Những câu thơ có cách diễn đạt thật độc đáọ đã cho thấy tình yêu thương của cha mẹ đối với con. Con lớn lên hàng ngày trong tình yêu thương ấy, trong sự nâng niu, mong chờ của cha mẹ.

Không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ, thời gian trôi qua, con trưởng thành trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và nghĩa tình của quê hương. Đó là cuộc sống của những “người đồng mình”, rất cần cù và tươi vui:

“Người đồng mình thương lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trong đời”.

Những từ ngữ giàu sắc thái biểu hiện: cài nan hoa, ken câu hát,… đã miêu tả cụ thể cuộc sống ấy đồng thời thể hiện tình cảm gắn bó, quấn quýt của con người quê hương. Rừng núi quê hương thơ mộng và trữ tình cũng là một trong những yếu tố nuôi con khôn lớn, nâng đỡ tâm hồn con. Thiên nhiên với những sông, suối, ghềnh, thác… đã nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn và lối sống: “Rừng cho hoa, con đường cho những tấm lòng”. Cách gọi “người đồng mình” đặc biệt gần gũi, thân thiết và gắn bó như gợi niềm ruột thịt yêu thương.

Không chỉ gợi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của “người đồng mình”. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ:

“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”.

Dùng những từ ngữ rất mạnh mẽ như “cao”, “xa”, “lớn”, tác giả muốn nhấn mạnh cuộc sống khoáng đạt, mạnh mẽ của những “người đồng mình”. Dù khó khăn, đói nghèo còn nhiều nhưng họ không nhụt chí, ý chí của họ vẫn rất vững chắc, kiên cường:

“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì là phong tục”

Những “người đồng mình” vượt qua vất vả để bám trụ lấy quê hương. Bằng cuộc sống lao động không mệt mỏi, họ xây dựng quê hương với những truyền thống cao đẹp. Những “người đồng mình” mộc mạc, thẳng thắn nhưng giàu chí khí, niềm tin…Người cha đã kể với con về quê hương với cảm xúc rất tự hào.

Tình cảm của người cha dành cho con rất thiết tha, trìu mến. Tình cảm này bộc lộ tự nhiên, chân thực qua những lời nhắn gửi của cha cho cọn. Người cha muốn con sống phải có nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận những khó khăn, vất vả để có thể:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”

Người cha mong cho con mình sống ngay thẳng, trong sạch, sống với ý chí, niềm tin để vững vàng vượt qua mọi thử thách khó khăn. Người cha mong cho con sống phải luôn tin vào khả năng của mình, tin tưởng vào bản thân. Có như vậy, con mới có thể thành công, mới không thua kém ai cả Người cha đã nói với con bằng tất cả lòng yêu thương của mình, nói với con những điều từ đáy lòng mình. Điều lớn nhất người cha đã truyền dạy cho con chính là niềm tự tin vào bản thân và lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống của quê hương.

Qua những lời người cha nói với con, có thể thấy tình cảm của người cha đối với con thật trìu mến, thiết tha và tin tưởng. Điều lớn lao nhất mà người cha muốn nói với con chính là niềm tự hào với sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương và niềm tin khi bước vào đời.

Bài thơ đã gợi cho người đọc những niềm cảm động sâu xa và những suy nghĩ sâu sắc. Thì ra, đằng sau những lặng lẽ, thâm trầm cùa cha là biết bao yêu thương, biết bao mong mỏi, biết bao hi vọng, biết bao đợi chờ … Con lớn lên như hôm nay không chỉ nhờ vào cơm ăn và áo mặc mà còn mang nặng ân tình của những lời dạy dỗ ân cần thấm thía. Quả là:

“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”.

Vậy thì, là người làm con, con xin nguyện:

“Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Chẳng những vậy, con sẽ bước theo những bước chân vững chắc mà cha để lại trên con đường cha bước đến đỉnh Thái Sơn – nguyện “sống như sông như suối”, nguyện ngẩng cao đầu “lên đường” mà không “thô sơ da thịt”. Và trên con đường ấy, con sẽ mang theo hình ảnh quê hương để tiếp tục nối tiếp cha anh “tự đục đá kê cao quê hương” thân thiết của mình.

Bài thơ có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật, tuy nhiên, độc đáo nhất và đặc sắc nhất là cách thể hiện, diễn tả tình cảm. Những từ ngữ, hình ảnh trong bài rất mộc mạc nhưng đồng thời cũng rất giàu hình ảnh gợi tả vừa cụ thể vừa có sức khái quát cao.

Bài thơ nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương, của dân tộc. Qua lời nói với con, ta phần nào hiểu rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn những tình cảm của người cha dành cho con. Những bài học mà người cha trong bài thơ Nói với con có lẽ là những bài học mà bất kỳ người cha nào cũng muốn dạy cho con mình. Và những bài học giản dị, mộc mạc đó có lẽ sẽ theo con suốt trên chặng đường đời, bài học của cha – bài học đầy ý nghĩa sâu sắc.


3. Phân tích tình cha con trong bài Nói với con của Y Phương

Người ta vẫn thường nói rằng:

Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha
Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha

Quả thật đúng như vậy, cha mẹ người sinh thành nuôi dậy ta trưởng thành, làm sao có thể đong đếm nổi công ơn. Nếu như mẹ là chỗ dựa tinh thần vững chắc thì cha lại là người định hướng, đưa ra cho con những lời khuyên hữu ích trên con đường đời đầy chông gai, bão tố. Có rất nhiều bài thơ, bài văn đã thể hiện vấn đề đó và ta không thể không nhắc đến bài thơ Nói với con của Y Phương. Những lời tâm sự giản dị mà chân thành của ông với con đã thể hiện tình cảm cha con sâu nặng, tha thiết.

Tình cảm gia đình vốn là thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng, cao đẹp, không chỉ người mẹ mà người cha luôn mong những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với đứa con của mình. Y Phương cũng không phải là một ngoại lệ, để con sống có ích, hiểu về nguồn cội của mình, ngay từ những dòng thơ đầu ông đã cho con thấy nguồn cội sinh dưỡng của con: Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ/ Một nước chạm tiếng nói/ Hai bước tới tiếng cười. Nguồn cội đầu tiên con sinh ra chính là từ tình yêu thương của cha mẹ. Con là kết tinh của tình yêu ấy. Những hình ảnh giàu giá trị tạo hình: “chân phải/ chân trái/ một bước/ hai bước” đã khắc họa những bước chân con trẻ chập chững biết đi. Đồng thời với biện pháp liệt kê: tiếng nói, tiếng cười, tới cha, tới mẹ cho thấy không khí gia đình hạnh phúc, ấm áp. Qua lối miêu tả hết sức giản dị người cha đã cho con biết gia đình chính là nguồn cội tinh thần nuôi dưỡng con, là nơi cho con yêu thương, ấm áp đầu đời và mãi sau này.

Không chỉ cho con thấy cuội nguồn con được sinh ra là cha mẹ, mà Y Phương còn cho con biết con được khôn lớn, trưởng thành còn bởi quê hương: “Người đồng mình yêu lắm con ơi … Con đường cho những tấm lòng”. Đoạn thơ sử dụng những hình ảnh giàu sức gợi “đan lờ cài nan hoa” vừa thể hiện được công cụ lao động đẹp đẽ vừa cho thấy đôi bàn tay cần cù, khéo léo và óc sáng tạo của người đồng mình. “Vách nhà ken câu hát” lại cho thấy nhịp sinh hoạt văn hóa của con người nơi đây và còn thấy được đời sống tâm hồn tinh tế, lạc quan của họ. Cùng với gia đình, truyền thống văn hóa, nghĩa tình quê hương đã nuôi dưỡng con khôn lớn, trưởng thành. Kết thúc bài thơ là lời tâm tình đầy hạnh phúc của cha: “Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới/ Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”, đó là ngày tình yêu cha mẹ được đơm hoa và cũng từ đó con được sinh ra, là kết quả của tình yêu đó.

Đoạn thơ tiếp theo, ông tha thiết nói với con về những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc mình. Sau lời thơ “người đồng mình thương lắm con ơi”, người cha đã lần lượt nêu ra và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình ấy là: có ý chí nghị lực vươn lên những khó khăn của cuộc sống; thủy chung với quê hương; sống mạnh mẽ lạc quan và còn tự lực, tự cường xây dưng và giữa gìn bản sắc của quê hương. Công lao vĩ đại của người đồng mình: “đục đá kê cao quê hương” – xây dựng quê hương, tạo nên ruộng đồng, dựng lên nhà cửa, bản làng, làm nên giá trị vật chất, tinh thần cho quê hương. “Làm phong tục” – tạo nên bao nề nếp, phong tục đẹp, làm nên bản sắc riêng của cộng đồng. Lời thơ tràn đầy niềm tự hào về vẻ đẹp của người đồng mình. Nhắn ngủ con phải biết kế thừa, phát huy những truyền thống đó.

Từ đó, người cha khuyên con biết sống theo những truyền thống của người đồng mình: “Dẫu làm sao…/ … không lo cực nhọc”. Điệp từ “sống” khởi đầu ba dòng thơ liên tiếp, tô đậm mong ước thiết tha, mãnh liệt của cha dành cho con. Ẩn dụ “đá” “thung” chỉ không gian sống của người niềm cao, gợi lên những nhọc nhằn, gian khó, đói nghèo. Người cha mong con “không chê” tức là biết yêu thương, trân trọng quê hương mình. Nghệ thuật đối “lên thác xuống ghềnh” cho thấy cuộc sống không dễ dàng, bằng phẳng, cần dũng cảm đối mặt, không ngại ngần. Cha khuyên con tiếp nối tình cảm ân nghĩa, thủy chung với mảnh đất nơi mình sinh ra của người đồng mình và cả lòng can đảm, ý chí kiên cường của họ. Để rồi, bài thơ khép lại bằng lời dặn dò vừa ân cần, vừa nghiêm khắc của người cha:

“Con ơi …..
………….. nghe con”

“Thô sơ da thịt” được nhắc lại để nhấn mạnh những khó khăn, thử thách mà con có thể gặp trên đường đời, bởi con còn non nớt, con chưa đủ hành trang mà đời thì gập ghềnh, gian khó. Dẫu vậy, “không bao giờ nhỏ bé được” mà phải biết đương đầu với khó khăn, vượt qua thách thức, không được sống yếu hèn, hẹp hòi, ích kỉ. Phải sống sao cho xứng đáng với cha mẹ, với người đồng mình. Lời nhắn nhủ chứa đựng sự yêu thương, niềm tin tưởng mà người cha dành cho con.

Bài thơ là những tình cảm thiêng liêng sâu sắc mà người cha dành cho con. Quan trọng hơn, qua từng ý thơ ông còn gửi gắm con những bài học sâu sắc về ý chí nghị lực trong cuộc sống, về sự tiếp thu truyền thống, làm giàu thêm vốn văn hóa quê hương. Những tình cảm ấy không chỉ dành cho riêng đứa con gái bé nhỏ mà đó còn là mong mỏi của biết bao ông bố, bà mẹ ở khắp mọi nơi.


4. Cảm nhận vẻ đẹp người đồng mình trong bài thơ Nói với con của Y Phương

Bài tham khảo 1:

Y Phương là một trong số ít những nhà thơ miền núi có những gắn bó lâu dài với hoạt động văn hóa nghệ thuật đến như vậy. Với một phong cách thơ hồn nhiên, trong sáng, chân thật và cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi, Y Phương đã có những đóng góp không nhỏ cho nền thơ ca hiện đại Việt Nam ở thế kỉ XX. Một trong những bài thơ gây được tiếng vang lớn trong sự nghiệp cầm bút của ông, in sâu trong tâm trí độc giả đó là thi phẩm “Nói với con” (1980). Bài thơ là lời tâm tình thủ thỉ và niềm hi vọng của người cha dành cho con, mong con khôn lớn, thành người, phát huy những nét đẹp vốn có của quê hương, dân tộc mình. Qua bài thơ, Y Phương đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng khó quên về những phẩm chất tốt đẹp của “người đồng mình”.

Trước hết, “người đồng mình” hiện lên là những con người tài hoa, khéo léo trong công việc lao động tươi vui:

Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.

“Người đồng mình” là để chỉ những người vùng mình, miền mình, những người cùng sống trên một miền đất, quê hương, cùng dân tộc. Câu thơ sử dụng từ ngữ hô gọi “con ơi” kết hợp với từ tình thái “yêu lắm” ( “yêu lắm” là cụm tính từ/ Tình thái từ là những từ thêm vào câu để tạo câu theo mục đích nói: à, ư, hả, hử, chứ, chăng, hãy, đừng chớ, … và dùng biểu lộ tình cảm của người nói) làm cho lời thơ trở nên ngọt ngào, chan chứa niềm tự hào với tình yêu thương quê hương da diết. Cuộc sống lao động cần cù và vui tươi của “người đồng mình” được gợi lên qua một số những hình ảnh rất cụ thể, giàu sức gợi: “đan lờ” – dụng cụ đánh bắt cá của người dân miền núi, dưới bàn tay khéo léo đã thành “cài nan hoa”; những ngôi nhà sàn không chỉ được dựng lên bằng những tấm ván gỗ mà còn được tạo nên bởi những “câu hát” – chiều văn hóa, lối sống của “người đồng mình”. Những động từ “đan”, “cài”, “ken” vừa có tác dụng diễn tả những động tác lao động; lại vừa cho thấy những phẩm chất cần cù, chịu khó, yêu lao động, yêu cuộc sống, chan chứa niền vui của những bàn tay khéo léo, tài hoa của người dân miền núi. Đồng thời, cũng dưới khối óc, bàn tay chăm chỉ, chịu thương, chịu khó của “người đồng mình”, họ đã biến những khu rừng đất trống đồi núi trọc thành nơi cư trú tuyệt vời. Vì thế, rừng núi không chỉ cho măng, cho nứa, cho gỗ mà còn ban tặng cho con người cả những sản phẩm tinh túy nhất của trời và đất đó là những bông hoa tươi thắm rực rỡ sắc màu. Họ khai hoang, lập làng, lập bản, tạo ra những cung đường đi ra thung ra suối, con đường vào làng vào bản, con đường tới trường, tới lớp, con đường ra ruộng, ra đồng… Chính những con đường đó đã được dựng xây lên bởi những “tấm lòng” bao dung, nhân hậu, gắn bó tình đoàn kết của những con người nơi đây.

Có thể nói, bằng đoạn thơ ngắn gọn với những hình ảnh cụ thể, chân thực, giàu sức khái quát, Y Phương đã làm nổi hình, nổi sắc những bàn tay khéo léo tài hoa trong cuộc sống lao động tươi vui, tràn ngập tình yêu cuộc sống của “người đồng mình”. Thiên nhiên và con người rừng núi hài hòa, gắn bó lẫn nhau trong một cuộc sống thanh bình, yên ả, thơ mộng, hiền hòa.

“Người đồng mình” không chỉ là những con người tài hoa, khéo léo mà còn là những con người biết lo toan và rất giàu niềm tìn, ý chí, nghị lực trong cuộc sống:

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn

Câu thơ đầu được điệp lại “Người đồng minh thương lắm con ơi” nhưng đã có sự thay đổi chút ít. Nếu như câu thơ ở khổ đầu là “yêu” tức là xuất phát từ tình cảm chân thành, từ trái tim tha thiết thì đến câu thơ ở khổ hai này lại là: “thương”. “Thương” là một trạng thái tình cảm không chỉ xuất phát từ trái tim yêu thương chân thành nữa mà còn gói gém cả sự sẻ chia, đồng cảm ở trong lòng. Chính vì thế, “người đồng mình” – những con người cùng miền đất, quê hương, dân tộc cùng chí hướng đã đoàn kết, gắn bó, sẻ chia và đồng cảm với nhau mà dựng xây quê hương mình trở nên ngày một giàu đẹp hơn. Với nghệ thuật đối lập tương phản: ” cao đo – xa nuôi”, “nỗi buồn – chí lớn”, Y Phương đã diễn tả những trạng thái khác nhau của “người đồng mình”. “Nỗi buồn – chí lớn” là khái niệm vô hình nhưng đã được tác giả hình dung cụ thể như có hình, có khối. “Người đồng minh” buồn, lo lắng, khắc khoải ở trong lòng vì trước mắt họ là biết bao nhiêu là khó khăn, gian nan thử thách; khi mà cả quê hương họ còn chưa vươn tới được tầm cao nhân văn, vẫn còn quanh quẩn với cái đói, cái nghèo. Nhưng “Người đồng mình” không bao giờ nhụt chí, mà luôn mạnh mẽ, vững vàng đối diễn với những khó khăn, thách thức ấy, đưa quê hương tiến lên phía trước, trở nên giàu mạnh, phát triển, văn mình. Câu thơ giản dị , mộc mạc, chân chất những đã diễn tả được tinh thần, ý chí quật cường, mạnh mẽ của người dân vùng cao.

Đối diện với nhiều khó khăn, thử thách nhưng “người đồng mình” vẫn luôn nguyện gắn bó, thủy chung, một lòng với quê hương, dân tộc mình:

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.

Nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những hình ảnh để nói tới cuộc sống của người miền núi như: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói”, “lên thác xuống ghềnh” có ý nghĩa diễn tả những khó khăn, vất vả, nghèo đói và nhọc nhằn mà họ đã và đang phải đương đầu. Điệp ngữ “sống … không chê” (2 lần), kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập và biện pháp so sánh “như sông như suối” có tác dụng diễn tả sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, bền bỉ của những người con miền núi cao trước cuộc sống khó khăn, vất vả khi mà chiến tranh lùi xa không được bao lâu. Qua đó, nhà thơ thể hiện niềm tự hào về “người đồng mình” với sức mạnh, ý chí thật phóng khoáng, đoàn kết, gắn bó thiết tha của họ đối với nơi chôn rau cắt rốn của mình.

Không dừng lại ở đó, “người đồng mình” còn hiện lên là những con người bản lĩnh, mạnh mẽ, giàu nghị lực sống và luôn mang trong mình lòng tự tôn dân tộc với khát vọng dựng xây đất nước:

Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.

Nghệ thuật đối lập tương phản: giữa ngoại hình và tâm hồn. Hình ảnh “thô sơ da thịt” diễn tả vẻ đẹp mộc mạc, bình dị, chân chất, khẳng khái của “người đồng mình”. Nhưng họ không hề “nhỏ bé” về tâm hồn mà ngược lại rất giàu lòng tự trọng, giàu chí khí, niềm tin cao đẹp với khát vọng dựng xây, phát triển quê hương. Muốn vậy, “người đồng mình” phải lao động:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.

Câu thơ có hai lớp nghĩa tả thực và ẩn dụ. Và tác giả đã miêu tả cuộc sống lao động của họ qua cụm từ “tự đục đá” thường thấy của người dân miền núi cao. Công việc của họ rất vất vả, nặng nhọc nhưng họ sẵn sàng tự nguyện làm vì sự phát triển của quê hương mình. Nhưng hình ảnh “kê cao quê hương” còn là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc của “người đồng mình”. Chính những con người cần cù, nhẫn nại, bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương, làm nên phong tục tập quán lâu đời tốt đẹp của dân tộc mình.

Tóm lại, với cách tư duy diễn đạt giàu hình ảnh của người miền núi, kết hợp với hình thức tâm tình, trò chuyện nhẹ nhàng của người cha, Y Phương đã làm nổi bật lên những vẻ đẹp về ngoại hình và phẩm chất của những người con miền núi. Đó là những con người khéo léo, tài hoa và luôn có ý thức, trách nhiệm công dân cao độ đối trong công cuộc dựng xây, phát triển quê hương, đất nước. Khép lại trang thơ, người đọc không chỉ thấy được chất Tày thấm đượm trong từng câu chữ, hình ảnh mà còn thấy được cả sức sống và vẻ đẹp dịêu kì của người dân miền núi. Qua đó, chúng ta thấy được tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ Y Phương đối với dân tộc mình.

Bài tham khảo 2:

Y Phương là một nhà thơ chiến sĩ. Thơ ông cuốn hút người đọc bằng vẻ đẹp vừa chất phác, mộc mạc, vừa mạnh mẽ, trong sáng. Ngôn ngữ và hình ảnh thơ của ông in đậm dấu ấn tư duy hồn nhiên và lối nói rất giàu hình ảnh của người miền núi. Vẻ đẹp của những người dân miền múi được thể hiện đẹp đẽ trong tác phẩm Nói với con.

Phần mở đầu bài thơ tác giả đã khái quát cho con về cội nguồn con được sinh ra và nuôi dưỡng chính là trong tình yêu thương của cha mẹ và sự bao bọc, che chở của người đồng mình, của núi rừng thiên nhiên. Sau những lời lẽ hết sức tha thiết ấy, tác giả đi sâu khắc họa những vẻ đẹp của người đồng mình. Qua những vần thơ giản dị, chân thành những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình hiện lên thật rõ nét và đáng trân trọng, tự hào.

Khổ thơ mở đầu bằng câu thơ ngập tràn tình cảm: “Người đồng mình thương lắm con ơi”. Hai tiếng “người đồng mình” được nhắc lại một lần nữa là cách gọi thể hiện sự gần gũi, thân thương như trong một gia đình. “Thương lắm” – bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc với cuộc sống nhiều vất vả, gian khó của họ. Rồi để sau đó là một loạt những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình được ông đưa ra.

Trước hết họ là những người giàu ý chí nghị lực, kiên cường và bền bỉ:

“Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”

Câu thơ có cách diễn đạt vô cùng độc đáo, nỗi buồn và chí lớn vốn không thể định hình, định lượng nhưng lại được tác giả dùng cao để đo nỗi buồn, xa để đo ý chí của con người. Cách nói trên đã hữu hình hóa những trắc trở, khó khăn mà người đồng mình phải trải qua đồng thời còn cho thấy ý chí quyết tâm của họ. Trước mọi khó khăn, thử thách họ vẫn không ngừng cố gắng, không ngừng vươn lên. Những khó khăn kia chỉ là thuốc thử, tôi rèn ý chí của họ ngày một mạnh mẽ hơn.

Không chỉ có ý chí kiên cường, họ còn thủy chung, yêu quê hương tha thiết: Sống trên đá không chê đá gập gềnh/ Sống trong thung không chê thung nghèo đói. Nơi họ được sinh ra, lớn lên gặp biết bao khó khăn, trở ngại nhưng tuyệt nhiên họ chưa một lần kêu than. Các từ phủ định “không chê” được lặp lại hai lần kết hợp với điệp từ “sống” cho thấy sức sống bền bỉ, mãnh liệt của người đồng mình trước những gian truân của cuộc sống. Đồng thời lời thơ còn gửi gắm tâm sự, mong muốn của cha đến con: mong con luôn thủy chung, tình nghĩa với bản làng, quê hương.

Họ còn là người có lối sống phóng khoáng, mạnh mẽ và luôn luôn lạc quan:

“ Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh không lo cực nhọc”

Câu thơ ngắn, nhịp nhanh như lời thúc giục động viên. Hình ảnh so sánh “như sông như suối” khắc họa lối sống khoáng đạt của con người nơi đây, thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” lại gợi nên cuộc sống lao động đầy vất vả. Thế nhưng họ vẫn “không lo cực nhọc” rất lạc quan, yêu đời. Câu thơ là lời khẳng định, ngợi ca của cha về vẻ đẹp của người đồng mình: họ luôn sống mạnh mẽ gắn bó thiết tha với quê hương dù phải trải qua bao khó khăn, cực nhọc. Từ đó người cha muốn: con sống mạnh mẽ vượt lên mọi ghềnh thác cuộc đời bằng ý chí, nghị lực của mình. Không chỉ vậy người đồng mình còn có những phẩm chất tốt đẹp khác khiến người cha rất đỗi tự hào. Đó là mộc mạc, giàu chí khí, niềm tin: “người đồng mình tuy thô sơ da thịt…đâu con”. Họ có thể thô sơ, giản dị về vẻ bề ngoài nhưng lại không hề nhỏ bé về tâm hồn, ý chí.

Tự lực tự cường xây dựng quê hương, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Câu thơ đã miêu tả thực công việc thường ngày của họ: đục đá, đẽo đá để “kê cao quê hương”, làm cho quê hương ngày càng giàu đẹp, góp phần nâng cao vị thế quê nhà. Qua đó câu thơ còn ca ngợi tinh thần tự lực, tự cường, chăm chỉ của người đồng mình. Ý nghĩa hơn nó còn mang giá trị tinh thần to lớn “còn quê hương thì làm phong tục”. Ý thơ cho ta thấy một công việc giản dị nhưng trở thành phong tục, nét đặc trưng, biểu tượng của quê hương miền núi. Bởi vậy, câu thơ còn có ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc: khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức xây dựng phát triển và bảo vệ cội nguồn. Như vậy, bằng sự lao động cần cù, nhẫn nại hàng ngày người đồng mình đã làm nên quê hương với những phong tục tập quán tốt đẹp. Từ đó người cha mong muốn con kế tục và phát huy truyền thống quê hương, sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của người đồng mình. Và hãy lấy đó làm hành trang để tự tin vững bước vào đời.

Bằng lớp ngôn từ giản dị, giọng điệu thiết tha tự hào, tác giả đã bộc lộ niềm tự hào sâu sắc về những vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình. Đồng thời qua những lời thơ tha thiết ấy ông còn gửi gắm đến con những lời khuyên những nguyện ước chân thành: con phải sống phòng khoáng tự do, luôn nỗ lực, cố gắng hết mình làm nên vẻ đẹp cho quê hương.

Bài tham khảo 3:

Y Phương nhà thơ dân tộc Tày, với điệu thơ hồn hậu, chân thân, cách tư duy giàu hình ảnh đã tạo nên thi phẩm xuất sắc “Nói với con”. Tác phẩm được sáng tác năm 1980, là lời tâm sự của ông với người con đầu lòng, qua lời tâm tình hết sức chân thật đó, tác giả có những cảm nhận hết sức sâu sắc về đức tình tốt đẹp của người đồng mình.

Con được sinh ra và lớn lên không chỉ bởi tình yêu thương của cha mẹ. Mà con được lớn lên từ sự yêu thương, đùm bọc của tình làng nghĩa xóm. Nơi đó chính là nguồn cội của hạnh phúc, là hành trang để con vững bước vào đời. Từ những lời thơ tha thiết nói về cội nguồn sinh dưỡng của con, Y Phương đưa ra những cảm nhận sâu sắc, chân thành về vẻ đẹp của người đồng mình.

Người đồng mình trước hết đáng yêu bởi sự giản dị, tài hoa. Trong cuộc sống lao động, họ cần cù làm lụng, trong tiếng hát tiếng cười:

Người đồng mình yêu lắm, con ơi!
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát

Giọng thơ vang lên đầy tha thiết và tự hào về đức tính tốt đẹp của người đồng mình. Y Phương có cách gọi rất độc đáo, gần gũi, “người đồng mình” – là người bản mình quê mình, gợi nên sự gần gũi, thân thương, tiếng gọi đầy ân tình với những con người quê hương. Kết hợp cùng hình thức câu cảm thán, đã cho người đọc cảm nhận được tấm chân tình được vang vọng từ đáy lòng tác giả. Với đôi bàn tay khéo léo, tài hoa họ đã “đan” “cài” “ken” những vật dụng bình thường trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Với niềm vui và lòng hăng say lao động họ biến cuộc sống của mình thành những bông hoa tươi rực rỡ, ngập đầy sức sống.

Không chỉ vậy, người đồng mình con biết lo toan và giàu mơ ước. Họ không chỉ giản dị, tài hoa trong cuộc sống lao động mà luôn biết lo nghĩ cho tương lai, sống đầy mơ ước, lí tưởng:

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn

Câu thơ đầu thể hiện tình yêu thương chân thành trước những gian truân, khó khăn mà người đồng mình phải trải qua trong cuộc sống. Đặc biệt, đến hai câu thơ tiếp theo, ông vận dụng lối tư duy độc đáo, giàu hình ảnh: lấy chiều cao để đo nỗi buồn, lấy cái xa để đo ý chí của con người. Hai từ cao và xa sắp xếp theo chiều tăng tiến, cho thấy rằng khó khăn càng nhiều thì ý chí, nghị lực của con người càng lớn lao, mạnh mẽ. Trong cuộc sống của họ còn nhiều bộn bề, khó khăn, thiếu thốn nhưng bằng ý chí của mình, họ sẽ vượt lên tất cả để hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn của bản thân và dân tộc mình.

Cuộc sống của người đồng mình cực khổ, nghèo khó là vậy, nhưng họ chưa một lần trong suy nghĩ có ý định rời bỏ quê hương. Họ luôn yêu quê hương tha thiết và nguyện gắn bó với nơi đây trọn đời:

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc

Khổ thơ sử dụng biện pháp điệp ngữ “sống…” và hình ảnh ẩn dụ “đá gập ghềnh” cho thấy sự gian nan, vất vả, cực nhọc trong cuộc sống của những con người nơi đây. Họ quanh năm lam lũ làm ăn nhưng họ “sống” “không chê” nghèo đói cực nhọc, không chê những thiếu thốn về vật chất. Họ chấp nhận mọi khó khăn, thử thách và sống thủy chung, ân tình với quê hương. Phải chăng chính cuộc sống nhiều gian nan vất vả đó đã tôi rèn ý chí, tiếp cho họ sức mạnh để băng qua mọi khó khăn, vượt qua mọi thử thách.

Và vẻ đẹp phẩm chất cuối cùng chính là người đồng mình có ý chí tự lập, tự cường và lòng tự tôn dân tộc cao: “Người đồng mình tuy thô sơ da thịt/ Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”. Lời thơ chân thành, mộc mạc mà giản dị nhưng chứa đựng biết bao tâm tư và niềm tự hào của tác giả. Câu thơ đã phản ánh tầm vóc, sức mạnh của người đồng mình: họ có thể nhỏ bé, mộc mạc nhưng giàu ý chí, niềm niền, họ có thể thô sơ về da thịt, nhưng tâm hồn ý chí thì lớn lao mạnh mẽ. Họ tự lực, tự cường, đục đá kê cao quê hương, làm cho quê hương giàu đẹp, phát triển. Câu thơ ngầm chứa niềm kiêu hãnh, tự hào PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả đối với người đồng mình.

Với thể thơ tự do, kết hợp cùng giọng điệu khỏe khoắn, thiết tha, ngôn ngữ mộc mạc, trường liên tưởng giàu hình ảnh, nhà thơ đã khái quát chính xác những vẻ đẹp của người đồng mình. Vẻ đẹp đó chính là cuội nguồn nuôi con khốn lớn, trưởng thành, bồi đắp cho con ý chí, nghị lực trên bước đường tương lai. Đọc bài thơ ta càng yêu mến và tự hào hơn những con người biết làm giàu đẹp cho quê hương.


5. Bình luận nội dung bài thơ Nói với con của Y Phương

Bài tham khảo 1:

Nhà thơ Y Phương sinh năm 1948, là người dân tộc Tày, quê ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Nói đến ông, chúng ta không thể không nhắc đến bài thơ Nói với con. Bài thơ là một lời tâm sự của cha đối với đứa con của mình.

Đọc bài thơ, ta thấy được qua lời nói với con, nhà thơ muốn thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc mình. Hơn nữa bài thơ còn giúp người đọc hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống. Bài thơ nói về tình yêu thương, sự chăm sóc của cha mẹ, sự chở che đùm bọc của quê hương đối với con. Bài thơ còn cho ta thấy những đức tính cao đẹp của người đồng mình và những lời nhắc nhở, mong ước của người cha.

Tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của quê hương đối với con được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ nhất:

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười

Bốn câu thơ đầu đã cho thấy người con được lớn lên từng ngày trong sự yêu thương, nâng đỡ của cha mẹ. Cha mẹ luôn ở bên cạnh che chở cho nó, một bước tới cha, rồi một bước lại tới mẹ. Cả bốn câu thơ đã tạo nên một không khí gia đình đầm ấm, quấn quýt tràn đầy niềm vui với từng bước đi, từng tiếng nói tiếng cười. Và cũng qua đó, người cha gợi cho con nhớ về cội nguồn sinh dưỡng. Con không chỉ lớn lên trong tình yêu thương, chăm sóc của cha mẹ mà còn lớn lên trong tình cảm trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng, trong nghĩa tình của quê hương:

Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát

Người con được lớn lên trong cuộc sống cộng đồng, trong cuộc sống lao động qua những hình ảnh: đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát. Câu thơ vừa miêu tả động tác, vừa diễn tả sự gắn bó, quấn quýt. Qua đó ta thấy được: quê hương cho người con tình yêu thương, cho nó một cuộc sống lao động vui vẻ, cần cù.

Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng

Con lớn lên trong cảnh thiên nhiên thơ mộng của núi rừng. Thiên nhiên đã che chở cho con. Cả đoạn thơ là một lời tâm sự của người cha dành cho con.

Không chỉ có vậy, bài thơ còn nói lên những đức tính cao đẹp của người đồng mình và lời nhắc nhở, mong ước của người cha: .

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn

Câu thơ cho ta thấy một cuộc sống vất vả nhưng mạnh mẽ, khoáng đạt, bền bỉ. Câu thơ cũng nói lên một cuộc sống gắn bó quê hương tuy còn cực nhọc, đói nghèo: Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con.

Người đồng mình là những người mộc mạc, giản dị nhưng là những người giàu chí khí, giàu niềm tin:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục

Người đồng mình bằng sự lao động cần cù đã làm nên quê hương với những phong tục, truyền thống tốt đẹp. Thông qua những đức tính cao đẹp của người đồng mình, người cha muốn nhắc nhở con:

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc

Và:

Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ được nhỏ bé Nghe con.

Người cha muốn nhắc nhở con phải sống có nghĩa, có tình, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận, biết vượt qua gian lao, thử thách bằng ý chí và niềm tin của mình. Người con phải biết tự hào với truyến thống của quê hương, cần tự tin để vững bước trên đường đời. Thông qua những lời nhắc nhở, tình cảm của cha dành cho con là tính yêu thương trìu mến, thiết tha và niềm tin tưởng của người cha qua lời nói với con. Đồng thời người cha muốn truyền cho con lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ với truyền thống cao đẹp của quê hương và niềm tự tin khi bước vào đời.

Qua bài thơ Nói với con, tác giả đã cho chúng ta một bài học về đường đời, về lối sống của một con người. Tuy chỉ là những lời mộc mạc nhưng lại rất chân tình và thấm thía sâu trong lòng người đọc.

Bài tham khảo 2:

Đối với mỗi người, hình ảnh người cha luôn là một hình ảnh rất thân quen. Cha là người thầy dạy cho con những bước đi dầu tiên, những bài học đầu tiên trong cuộc sống. Cha là người cho con niềm tin, lòng dũng cảm mỗi khi con gặp khó khăn, vất vả. Bằng cách nói giàu hình ảnh cụ thể, mộc mạc mà có tính khái quát, vẫn giàu chất thơ, bài thơ Nói với con PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả Y Phương đã gợi về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người và sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương mình, đồng thời thể hiện tình cảm cha con rất sâu sắc.

Bài thơ như một lời nhắn nhủ tâm tình của người cha với người con, đồng thời cũng là bài học đầu đời cha dành cho con. Người cha đã gợi lên cho con rằng con lớn lên trong tình yêu thương, sự đùm bọc của cha mẹ, của quê hương, từ đó thể hiện những đức tính cao đẹp của người đồng mình và những lời nhắn gửi đầy tình yêu thương trìu mến của mình cho con.

Ngay từ những câu đầu của bài thơ, tác giả đã gợi lên một không khí gia đình rất đầm ấm, quấn quýt từ bước đi, lời nói cho đến tiếng cười:

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười

Người cha đã nói với con những lời nói rất ấm áp, những lời động viên, khích lệ ngay từ những bước đi đầu tiên của con. Trong suốt quãng thời gian con tập đi luôn có sự đồng hành của cha, mẹ. Cha mẹ đã dìu dắt, nâng đỡ con từ những bước chân đầu tiên. Cha mẹ là nguồn động viên, an ủi, cổ vũ lớn lao nhất. Cha mẹ luôn ở bên con, là chỗ dựa, là nơi con tìm về để tiếp thêm niềm tin khi gặp khó khăn, vấp ngã. Những thành công đầu tiên của con được đón nhận bởi cha mẹ, được chúc mừng bằng tiếng cười của mẹ, bằng giọng nói của cha. Con lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, trong lời dạy dỗ, chỉ bảo ân cần của cha, trong giọng nói, nụ cười hiền dịu, ấm áp của mẹ. Con lớn lên trong sự đùm bọc của quê hương, trong cuộc sống lao động miệt mài, cần cù vui tươi của những người dân quê. Con còn sống trong sự ôm ấp của núi rừng. Núi rừng che chắn, bảo vệ cho ngôi làng con ở, dành cho con những gì đẹp đẽ, quý báu nhất, cho con những bông hoa rừng đầy sắc hương. Con lớn lên trong sự đùm bọc của quê hương. Trên bước đường con đi có sự ủng hộ, giúp đỡ của những người cùng làng không chỉ có cha dạy cho con những bài học mà những người đồng mình còn dạy cho con biết lao động. Họ dạy con lao động là vô cùng cần thiết, lao động gắn với cuộc sống của con và lao động cho con niềm vui. Thành quả lao động do tự tay con làm nên sẽ mang lại cho con niềm vui bởi nó mang lòng nhiệt tình của con cũng như sống trong ngôi nhà do tự tay mình dựng. Những người đồng mình cảm thấy gắn bó, thân thiết hơn bởi họ không chỉ dựng nhà bằng gỗ, bằng tranh mà dựng bằng cả tấm lòng, ken vào vách nhà những câu hát, câu ca của quê hương.

Không chỉ gợi cho con về nguồn sinh dưỡng, cha còn nói với con về những đức tính cao đẹp của người đồng mình. Đó là lòng yêu lao động, hăng say lao động với cả tấm lòng. Đó là sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ:

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lởn

Dùng những từ ngữ rất mạnh mẽ như cao, xa, lớn, tác giả muốn nhấn mạnh cuộc sống khoáng đạt, mạnh mẽ của những người đồng mình. Những người đồng mình dù khó khăn, đói nghèo còn nhiều nhưng không nhụt chí, ý chí của họ vẫn rất vững chắc, kiên cường:

Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì là phong tục

Những người đồng mình vượt qua vất vả để bám trụ lấy quê hương. Bằng cuộc sống lao động không mệt mỏi, họ xây dựng quê hương với những truyền thống cao đẹp. Những người đồng mình mộc mạc, thẳng thắn nhưng giàu chí khí, niềm tin… Người cha đã kể với con về quê hương với cảm xúc rất tự hào.

Tình cảm của người cha dành cho con rất thiết tha, trìu mến. Tình cảm này bộc lộ tự nhiên, chân thực qua những lời nhắn gửi của cha cho con. Người cha muốn con sống phải có nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương, biết chấp nhận những khó khăn, vất vả để có thể:

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc

Người cha mong cho con mình sống ngay thẳng, trong sạch, sống với ý chí, niềm tin để vững vàng vượt qua mọi thử thách khó khăn. Người cha mong cho con sống phải luôn tin vào khả năng của mình, tin tưởng vào bản thân. Có như vậy, con mới có thể thành công, mới không thua kém ai. Người cha đã nói với con bằng tất cả lòng yêu thương của mình, nói với con những điều từ đáy lòng mình. Điều lớn nhất người cha đã truyền dạy cho con chính là niềm tự tin vào bản thân và lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống của quê hương.

Bài thơ nhắc nhở chúng ta về tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương, của dân tộc. Qua lời nói với con, ta phần nào hiểu rõ hơn, cảm nhận sâu sắc hơn những tình cảm của người cha dành cho con. Những bài học mà người cha trong bài thơ nói với con có lẽ là những bài học mà bất kì người cha nào cũng muốn dạy cho con mình. Và những bài học giản dị, mộc mạc đó có lẽ sẽ theo con suốt trên chặng đường đời, bài học của cha – bài học đầy ý nghĩa sâu sắc.

Bài tham khảo 3:

Nếu như Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ dạt dào tình yêu con của người mẹ Tà-ôi, Con cò của Chế Lan Viên là sự che chở ấm áp của mẹ trên suốt đường đời con đi, thì Nói với con của Y Phương lại mang một màu sắc khác. Đó cũng là tình cảm gia đình, tình yêu con tha thiết nhưng đặc biệt hơn nó lại xuất phát từ một người cha. Cha gửi gắm vào đó những bài học về cuộc sống kì diệu của con, gửi vào đó những đức tính cao đẹp của con người quê hương và gửi vào đó tình yêu của không chỉ riêng cha mà của cả gia đình.

Có thể nói, Y Phương đã mang vào trong tác phẩm của mình một cái gì đó đậm chất dân tộc miền núi. Những hình ảnh mà tác giả sử dụng không phải là những chi tiết đơn thuần mà nó mang ý nghĩa biểu tượng cao, giản dị nhưng sâu sắc. Từ những hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng ấy, Y Phương bộc lộ tình yêu của người cha và những lời nhắn nhủ với con trong tương lai. Nếu như coi đó là những phép ẩn dụ thì xuyên suốt bài thơ là những phép ẩn dụ như thế; nếu như coi đó là những đặc sắc nghệ thuật thì Nói với con đã để lại dấu ấn trong lòng người đọc bằng những điểm nhấn tinh tế.

Ngay từ nhan đề Nói với con, người đọc đã có thể nhận thấy một tình cảm thiêng liêng, ấm áp và gần gũi. Đó chính là tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của quê hương. Cha nói với con như đang dang tay chở che cho từng bước đi của con. Tác giả không đặt một nhan đề nào đó mang ý nghĩa khái quát như Lời nhắn nhủ cho con phải chăng là có dụng ý? Nói với con thể hiện sự giản dị bởi nó như một lời tâm sự, một lời nhắc nhở mà không mang ý nghĩa nặng nề. Cũng có thể hình dung ra như khi con chạy nhảy, nô đùa, cha nói với con rằng: Chơi cẩn thận kẻo ngã. Và cứ mỗi khi con chơi, cha lại nhắc nhở như thế. Con sẽ hiểu rằng cha thương con, yêu con và luôn lo lắng cho con. Cũng thật vậy, khi đi vào sâu trong tác phẩm:

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười

Từ khi con sinh ra, cha mẹ luôn dõi theo từng ngày tháng con lớn khôn. Bởi thế mà dân ta vẫn truyền nhau câu nói: Ba tháng biết lẫy, bẩy tháng biết bò, chín tháng lò dò biết đi. Mỗi bước đi của con đều có cha mẹ ở bên dìu dắt; mỗi tiếng cười, tiếng nói từ khi biết hóng chuyện, bập bẹ gọi mẹ, gọi bà đều có cha mẹ động viên khuyến khích. Cũng như trong cuộc sống, không cha mẹ nào lại không mong con mau biết nói, để trò chuyện cho vui nhà vui cửa, không cha mẹ nào lại không mong muốn con của mình luôn nở thắm nụ cười trên môi. Đó chính là tình yêu của cha chứa chan trong những vần thơ. Và những vần thơ ấy cha còn muốn con biết rằng:

Người đồng minh yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng

Cha muốn con hiểu rằng, bên con không chỉ có tình yêu thương của cha mẹ mà còn có sự đùm bọc chở che của quê hương, làng xóm. Ba động từ đan, cài, ken thể hiện sự đoàn kết gắn bó của quê hương. Không chỉ con người, mà tất cả những gì của quê hương yêu dấu cũng chính là những mái nhà ấm áp của con. Rừng cho hoa trái ngát thơm, trên con đường con đi, cũng sẽ có những tấm lòng của quê hương rộng mở vỗ về con. Có thể thấy, tình cảm cha gửi gắm vào trong thơ mạnh mẽ, thiêng liêng và vô cùng rộng lớn. Cha cũng muốn con biết rằng những tháng ngày của cả gia đình cùng ngọn lửa cháy bỏng của tình yêu là những tháng ngày hạnh phúc nhất trên đời. Bởi:

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.

Có rất nhiều cách để thể hiện tình yêu con nhưng người cha trong Nói với con lại thể hiện một cách giản dị nhưng dạt dào xúc cảm và ý nghĩa như thế. Tình yêu ấy, sự đùm bọc, chở che ấy là của cha, của mẹ, của quê hương tha thiết của con.

Cha không chỉ muốn nói với con, muốn con hiểu những tình cảm thiêng liêng mà cha còn muốn để con thấy những đức tính cao đẹp của người đồng mình, để từ đó khắc sâu trong con lời nhắn nhủ từ chính tấm lòng của cha. Người đồng mình là những con người thế nào? Người đồng mình là những con người thô sơ da thịt, những con người tự đục đá kê cao quê hương và quê hương thì đẹp đẽ với những truyền thống dân tộc. Những con người của quê hương ấy được cha ca ngợi cùng những đức tính đáng trân trọng. Họ không buồn trước những thử thách khó khăn cao như núi; họ không nản dù phải đi trên những con đường xa tít để tới nơi tận cùng của chiến thắng; hình dáng của họ có thể bé nhỏ nhưng sâu trong cái bé nhỏ của tầm vóc ấy là ý chí, nghị lực, là một con người không hề nhỏ bé. Những con người của quê hương luôn hướng về những điều tốt đẹp, những truyền thống từ muôn đời này. Người đồng mình là vậy, lớn lao và đẹp đẽ là vậy. Hình ảnh ấy được thể hiện rất sinh động và chân thực. Nhưng phải chăng những đức tính của con người quê hương miền núi nhiều khổ cực chỉ được cha nói với con với mục đích đơn giản là để thấy và để biết? Nếu dừng lại ở đó thì cũng giống như cha chỉ nhắc nhở con chơi đùa cẩn thận kẻo ngã có một vài lần mà không dõi theo con trong suốt trò chơi. Nhưng, điều đã được khẳng định và luôn tồn tại đó là: cha yêu con và luôn dõi theo từng bước con đi. Vì thế cha đã nhắn nhủ con, nhắc nhớ con về bài học cuộc sống:

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối

Qua những đức tính của con , quê hương cao đẹp là thế, hiên ngang là thế, cha muốn con sống sao cho xứng đáng với quê hương. Cha hi vọng con sẽ vượt qua thác ghềnh dẫu có hiểm trở, dẫu có cheo leo; cha hi vọng con sẽ đứng vững trước cái nghèo đói để chống chọi và vươn lên. Và ở bất cứ việc gì con làm, con hãy sống, hãy tự tin bước đi không ngừng như những con sông, con suối mãi chảy mang theo những dòng nước mát trong lành. Những dòng nước ấy, cha muốn ý chí của con sẽ như thế, cha mong nghị lực của con sẽ dồi dào như thế. Và qua truyền thống của những con người quê hương, những con người mạnh mẽ, khoáng đạt, cha muốn nhắc nhở con hãy tự hào về những truyền thống quê hương để sống có nghĩa có tình, thuỷ chung với quê hương. Lời nhắn nhủ xuất phát từ tình cảm yêu thương trìu mến thiết tha, niềm tin tưởng của cha. Cha yêu con, mong con vưựt qua những thử thách của cuộc đời cùng sự bền bỉ, cố gắng vươn lên, cùng những tấm gương mà truyền thống của quê hương là tấm gương sáng nhất.

Như vậy, từ những đức tính và truyền thống đáng tự hào của người đồng mình, cha đã nhắc nhở con bài học sâu sắc và ý nghĩa của cuộc sống.

Ở bất kì mọi thời đại, bất kì mọi hoàn cảnh, tình cảm mà cha mẹ dành cho con, gia đình và quê hương dành cho con là điều cao cả và thiêng liêng. Người cha trong Nói với con của Y Phương cũng vậy. Đó là tình yêu, là niềm hi vọng vào con. Bài thơ mang tình cảm dạt dào và tha thiết nhưng cũng rất mạnh mẽ như hình tượng người cha trong mỗi con người, những lời nhắn nhủ của người cha với con mình cũng chính là lời nhắn nhủ mà người cha nào cũng mong con không bao giờ quên trên con đường đời đầy thử thách và gian lao.

Bài tham khảo 4:

Trong nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay, có rất nhiều tác phẩm hay viết về tình cha con. Nhà thơ Y Phương cũng đã có một bài thơ hay nói về tình cha con, đó là bài Nói với con. Bài thơ đã thể hiện rõ nét được những cảm xúc, mong muốn của người cha dành cho người con, qua đó thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương.

Những lời thơ trong bài thơ Nói với con gợi cho ta nhớ về cội nguồn sinh dưỡng của mỗi người, gợi về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của quê hương. Con được lớn lên trong tình yêu thương của cha, mẹ và trong cuộc sống lao động của quê hương. Mỗi câu thơ trong bài như chính lời nói của người cha nhắc nhở con phải nhớ đến những gì mà quê hương đã làm cho con, phải nhớ đến đức tính cao đẹp của người đồng mình và hơn nữa là phải có sức mạnh bền bỉ, tự biết vươn lên của cuộc sống.

Tình yêu thương của cha mẹ, sự đùm bọc của quê hương đối với con là vô cùng to lớn:

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười

Bốn câu thơ này đã thể hiện được phần nào tình cảm yêu thương của cha mẹ dành cho con. Người con lớn lên trong sự yêu thương, nâng đỡ, đùm bọc của cha mẹ. Cha mẹ luôn dành cho con những tình cảm nồng ấm nhất. Mỗi bước đi, tiếng nói, tiếng cười của con đều được cha mẹ đón nhận. Con lớn lên trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng, nghĩa tình của quê hương. Con gắn bó với đan, với cài, ken từ nhỏ đến lớn. Thiên nhiên và quê hương đã nâng đỡ tâm hồn, sự sống của con, giúp con trưởng thành. Mai sau, khi con khôn lớn, khi con bước đi trên đường đời thì cha mẹ và quê hương vẫn sẽ luôn ở bên con, giúp đỡ cho con, giúp con vững bước trong tương lai. Cha mẹ, quê hương đã dành cho con mọi tình cảm đẹp đẽ nhất.

Qua khổ thơ thứ hai, người cha muốn nói cho con biết được những đức tính cao đẹp của người đồng mình. Người đồng mình Cao đo nỗi buồn – Xa nuôi chí lớn. Tuy cuộc sống vất vả nhưng họ bền bỉ gắn bó với quê hương Người đồng mình mộc mạc, giàu chí khí, niềm tin và ý chí mạnh mẽ. Bằng sự lao động cần cù của chính mình, họ đã làm nên phong tục, tập quán tốt đẹp. Người đồng mình sống nghĩa tình, thuỷ chung với quê hương. Họ biết chấp nhận, vượt qua gian lao thử thách bằng ý chí, niềm tin của chính mình. Con cần phải tự hào với truyền thống quê hương, tự tin vững bước trên đường đời:

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc

Đây chính là những mong muốn, tình cảm của người cha đối với con. Cha dành cho con tình yêu thương trìu mến, thiết tha, niềm tin tưởng. Cha mong muốn cho con dù con có ở đâu, như thế nào thì con cũng phải biết vươn lên. Con hãy cứ vững bước tiến lên bởi đằng sau con luôn có cha, cha sẽ nâng đỡ con mỗi khi con ngã; giúp đỡ con mỗi khi con gặp khó khăn. Cha muốn con sống như sông như suối, cho dù đi đâu, gặp phải điều gì thì cũng không lo cực nhọc, phải có ý chí, quyết tâm tiến lên, tiếp tục bước đi trên con đường đời, tương lai đang chờ con ở phía trước:

Con ơi tuy thô sơ da thịt Lên đường
Không bao giờ được nhỏ bé
Nghe con.

Điều lớn lao nhất mà người cha muốn truyền cho con chính là lòng tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống cao đẹp, tự tin khi bước vào đời.

Cha mẹ là những người dành cho con những tình cảm thiêng liêng, đẹp đẽ nhất. Đặc biệt là cha, cha đã dành cho con sức sống bền bỉ, sự tự tin trong cuộc sống, ý chí vươn lên mỗi khi gặp khó khăn. Bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của một dân tộc miền núi, gợi nhắc tình cảm gắn bó với truyền thống, với quê hương.

Bài tham khảo 5:

Trong cuộc sống luôn tồn tại những tình cảm thiêng liêng, cao quý. Một trong những tình cảm đó chính là tình cảm cha con. Nhà thơ Y Phương đã viết tác phẩm Nói với con để thể hiện những nét rất riêng của dân tộc miền núi.

Điều đầu tiên ta cảm nhận được khi đọc tác phẩm là một giọng thơ, một cách nói, diễn tả của người miền núi rất mộc mạc, chân thực mà sâu sắc. Giọng điệu ấy có một sức gợi tả mạnh mẽ khiến cho mỗi người đọc luôn hiểu được lời nói PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả bằng tâm hồn, cảm xúc của chính họ. Khi đọc tác phẩm, chúng ta nhận ra một tình cảm gia đình ấm cúng, sự ca ngợi những truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ và một vẻ đẹp tâm hổn cùng tình yêu quê hương tha thiết. Chính điều ấy cũng khiến cho tác phẩm này trở nên đặc biệt hơn. Nó không chỉ thể hiện một khía cạnh, mà còn là những điều thiêng liêng, cau quý trong cuộc sống. Lời thơ ấy dường như đã được viết nên bằng tình yêu của người cha, tình yêu của một con người đối với quê hương, đất nước.

Con đã lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, trong sự đùm bọc của quê hương, đất nước. Và rồi những câu thơ lại hiện lên:

Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười

Bốn câu thơ là những lời cha nói cho con về một tình cảm gia đình ấm cúng và thiêng liêng. Trong đó có tình yêu, sự nâng đỡ mà cha mẹ dành cho con, có sự quấn quýt của một gia đình. Tất cả đã tạo dựng nên một không khí gia đình tràn ngập tiếng cười hạnh phúc mà mộc mạc. Người cha đã gợi cho con nhớ về cội nguồn sinh dưỡng, nhớ tới bước đi đầu tiên. Không chỉ có vậy, người con còn lớn lên trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và trong nghĩa tình của quê hương:

Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tiếng cười
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời

Con đã lớn trong cuộc sống cộng đồng, với cuộc sống lao động, với lời ca tiếng hát. Con còn lớn lên trong thiên nhiên thơ mộng, có hoa, có cảnh, có những con người giản dị mà thân thương. Tất cả đã che chở, đùm bọc lấy cuộc sống, tuổi thơ của con. Đan, cài, ken có vẻ như những động từ ấy còn gợi lên sự gắn bó quấn quýt của quê hương với con. Và chúng ta có thể hiểu được ý của cha: cha gợi lại trong con về cội nguồn, về quê hương đất nước để từ đó con biết yêu thương, trân trọng và gìn giữ những tình cảm gia đình, những khung cảnh của quê hương. Y Phương đã không nói ra những điều mà ông muốn những người đọc cảm nhận chúng bằng tâm hồn thơ của chính mình.

Không chỉ có vậy, khi đến với những dòng thơ tiếp theo của bài, chúng ta lại cảm nhận thêm những cảm xúc mới. Tác giả lại mang đến cách hiểu về đức tính cao đẹp của người đồng mình và những mong ước của cha với con:

Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc

Đó chính là những mong ước, những lời nhắc nhở chân tình mà cha đang nói với con. Cha muốn con phải biết vươn lên trong cuộc sống, trong khó khăn gian khổ. Cha muốn con biết yêu quý quê hương, vượt qua mọi thử thách bằng ý chí và nghị lực của chính mình như truyền thống của người đồng mình. Con còn phải trở thành người sống có nghĩa, có tình, phải thuỷ chung, tự hào về quê hương. Cha muốn trông thấy con vững bước trong cuộc sống bằng sự tự tin vào chính bản thân.

Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục

Cha cho con hiểu và thấy sự khoáng đạt, bền bỉ của dân tộc trong cuộc sống. Thấy được sức sống mạnh mẽ và truyền thống cao đẹp của quê hương. Bằng sự cần cù, mạnh mẽ, họ đã tạo nên quê hương để rồi từ đó con luôn phải tự hào về quê hương, dân tộc, truyền thống của chính bản thân mình.

Bài thơ như lời nói của cha với con nhưng qua những lời nói ấy, người đọc lại hiểu được những điều thực sự ý nghĩa trong cuộc sống. Nội dung bài thơ là sự mộc mạc, giản dị. Nó tràn ngập tình yêu thương mà cha dành cho con. Để từ đó, khi đọc tác phẩm ta luôn cảm nhận thấy trong tâm hồn những điều thú vị khó tả.


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Nói với con sgk Ngữ văn 9 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các bạn làm bài Ngữ văn tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com