Soạn bài Tấm Cám sgk Ngữ văn 10 tập 1

Nội dung bài Soạn bài Tấm Cám sgk Ngữ văn 10 tập 1 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, phân tích, cảm nhận, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn lớp 10 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn và ôn thi THPT Quốc gia.


TẤM CÁM

(Truyện cổ tích)

TIỂU DẪN

Truyện cổ tích được chia thành ba loại: cổ tích về loài vật, cổ tích thần kì, cổ tích sinh hoạt. Cổ tích thần kì có nội dung phong phú và chiếm số lượng nhiều nhất. Đặc trưng quan trọng của cổ tích thần kì là sự tham gia của các yếu tố thần kì vào tiến trình phát triển của câu chuyện (tiên, Bụt, sự biến hóa thần kì, những vật có phép màu,…). Truyện cổ tích thần kì thể hiện ước mơ cháy bỏng của nhân dân lao động về hạnh phúc gia đình, về lẽ công bằng xã hội, về phẩm chất và năng lực tuyệt vời của con người.

Truyện Tấm Cám thuộc loại cổ tích thần kì. Kiểu truyện Tấm Cám phổ biến ở nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới.


VĂN BẢN

Ngày xưa, có Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Hai chị em suýt soát tuổi nhau. Tấm là con vợ cả, Cám là con vợ lẽ. Mẹ Tấm đã chết từ hồi Tấm còn bé. Sau đó mấy năm thì cha Tấm cũng chết. Tấm ở với dì ghẻ là mẹ của Cám. Dì ghẻ là người rất cay nghiệt(1). Hằng ngày, Tấm phải làm lụng vất vả, hết chăn trâu, gánh nước, đến thái khoai, vớt bèo; đêm lại còn xay lúa giã gạo mà không hết việc. Trong khi đó thì Cám được mẹ nuông chiều, được ăn trắng mặc trơn, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, không phải làm việc nặng.

Một hôm dì ghẻ đưa cho hai chị em mỗi người một giỏ bảo ra đồng bắt con tôm cái tép. Mụ hứa hẹn: “Hễ đứa nào bắt được đầy giỏ thì thưởng cho cái yếm đỏ!”.

Ra đồng, Tấm nhờ mò cua bắt ốc đã quen nên chỉ một buổi là được đầy giỏ vừa cá vừa tép. Còn Cám thì đủng đỉnh dạo hết ruộng nọ sang ruộng kia, mãi đến chiều vẫn không được gì.

Thấy Tấm bắt được một giỏ đầy, Cám bảo chị:

– Chị Tấm ơi, chị Tấm! Đầu chị lấm, chị hụp cho sâu, kẻo về dì mắng.

Tin là thật, Tấm bèn xuống ao lội ra chỗ sâu tắm rửa. Cám thừa dịp trút hết tép của Tấm vào giỏ của mình rồi ba chân bốn cẳng về trước. Lúc Tấm bước lên chỉ còn giỏ không, bèn ngồi xuống bưng mặt khóc hu hu.

Bấy giờ Bụt(2) đang ngồi trên tòa sen, bỗng nghe tiếng khóc của Tấm, liền hiện xuống hỏi:

– Con làm sao lại khóc?

Tấm kể lể sự tình cho Bụt nghe. Bụt bảo:

– Thôi con hãy nín đi! Con thử nhìn vào giỏ xem còn có gì nữa không?

Tấm nhìn vào giỏ rồi nói:

– Chỉ còn một con cá bống.

– Con đem con cá bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai, còn một đem thả xuống cho bống. Mỗi lần cho ăn, con nhớ gọi như thế này:

Bống bống, bang bang,
Lên ăn cơm vàng cơm bạc nhà ta,
Chớ ăn cơm hẩm cháo hoa(3)nhà người.

Không gọi đúng như thế thì nó không lên, con nhớ lấy!

Nói xong Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp nững hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một qen nhau, và bống ngày một lớn lên trông thấy.

Thấy Tấm sau mỗi bữa ăn thường mang cơm ra giếng, mụ dì ghẻ sinh nghi, bèn bảo Cám đi rình. Cám nấp ở bụi cây bên bờ giếng nghe Tấm gọi bống, bèn nhẩm lấy cho thuộc rồi về kể lại cho mẹ nghe.

Tối hôm ấy mụ dì ghẻ bảo Tấm sáng mai dậy sớm chăn trâu, và dặn:

– Con ơi con! Làng đã bắt đầu cấm đồng(4) rồi đấy. Mai con đi chăn trâu, phải chăn đồng xa, chớ chăn đồng nhà, làng bắt mất trâu.

Tấm vâng lời, sáng hôm sau đưa trâu đi ăn thật xa. Ở nhà, mẹ con Cám mangba1t cơm ra giếng, cũng gọi bống lên ăn y như Tấm gọi. Nghe lời gọi, bống ngoi lên mặt nước. Mẹ Cám đã chực sẵn, bắt lấy bống đem về nhà làm thịt.

Đến chiều Tấm dắt trâu về, sau khi ăn xong Tấm lại mang bát cơm để dành ra giếng. Tấm gọi nhưng chả thấy bống ngoi lên như mọi khi. Tấm gọi mãi, gọi mãi, cuối cùng chỉ thấy một cục máu nổi lên mặt nước. Biết là có sự chẳng lành cho bống, Tấm òa lên khóc. Bụt lại hiện lên, hỏi:

– Con làm sao lại khóc?

Tấm kể sự tình cho Bụt nghe, Bụt bảo:

– Con bống của con người ta đã ăn thịt mất rồi. Thôi con hãy nín đi! Rồi về nhặt lấy xương nó, kiếm bốn cái lọ bỏ vào, đem chôn xuống dưới bốn chân giường con nằm.

Tấm trở về theo lời Bụt đi tìm xương bống, nhưng tìm mãi các xó vườn góc sân mà  không thấy đâu cả. Một con gà thấy thế, bảo Tấm:

– Cục ta cục tác! Cho ta nắm thóc, ta bới xương cho!

Tấm bốc nắm thóc ném cho gà. Gà chạy vào bếp bới một lúc thì thấy xương ngay. Tấm bèn nhặt lấy bỏ lọ và đem chôn dưới chân giường như lời Bụt dặn.

Ít lâu sau, nhà vua mở hội trong mấy ngày đêm. Già trẻ trai gái các làng đều nô nức đi xem. Trên các nẻo đường, quần áo mớ ba mớ bảy dập dìu tuôn về kinh(5) như nước chảy. Hai mẹ con Cám cũng sắm sửa quần áo đẹp để đi trẩy hội(6). Thấy Tấm cũng muốn đi, mụ dì ghẻ nguýt dài. Sau đó mụ lấy một đấu gạo trộn lẫn với một đấu thóc, bảo Tấm:

– Con hãy nhặt xong chho dì chỗ gạo này rồi đi đâu hãy đi, đừng có bỏ dở; về không có gì để thổi cơm, dì đánh đó.

Nói đoạn, hai mẹ con quần áo xúng xính lên đường. Tấm ngồi nhặt một lúc, thấy sốt ruột, nghĩ rằng không biết bao giờ mới nhặt xong, bèn ngồi khóc một mình. Giữa lúc ấy Bụt hiện lên, hỏi:

– Con làm sao lại khóc?

Tấm chỉ vào cái thúng, thưa:

– Dì bắt con phải nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, rồi mới được đi xem hội. Lúc nhặt xong thì hội đã tan rồi, còn gì nữa mà xem.

Bụt bảo:

– Con đừng khóc nữa. Con mang cái thúng đặt ra giữa sân, để ta sai một đàn chim sẻ xuống nhặt giúp.

– Nhưng ngộ chim sẻ ăn mất thì khi về con vẫn cứ phải đòn.

– Con cứ bảo chúng nó thế này:

Rặt rặt(7) xuống nhặt cho tao
Ăn mất hạt nào, thì tao đánh chết.

thì chúng nó sẽ không ăn của con đâu.

Tự nhiên ở trên không có một đàn chim sẻ đáp xuống sân nhặt thóc ra một đằng, gạo ra một nẻo. Chúng lăng xăng ríu rít, chỉ trong một lát đã làm xong, không suy suyển một hạt. Nhưng khi chim sẻ đã bay đi rồi, Tấm lại nức nở khóc. Bụt lại hỏi:

– Con làm sao còn khóc nữa?

– Con rách rưới qua, sợ người ta không cho con vào xem hội.

– Con hãy đào những cái lọ xương bống đã chôn ngày trước lên thì sẽ có đủ mọi thứ cho con đi trẩy hội.

Tấm vâng lời, đi dào các lọ lên. Đào lọ thứ nhất lấy ra được một bộ áo mớ ba(8), một cái xống lụa(9), một cái yếm lụa điều và một cái khăn nhiễu. Đào lọ thứ hai lấy ra được một đôi giày thêu, đi vừa như in. Lọ thứ ba, đào lên thì thấy một con ngựa bé tí, nhưng vừa đặt con ngựa xuống đất, bỗng chốc nó hí vang lên và biến thành ngựa thật. Đào đến lọ cuối cùng thì lấy ra được một bộ yên cương xinh xắn.

Tấm mừng quá vội tắm rửa rồi thắng bộ vào, đoạn cưỡi lên ngựa mà đi. Ngựa phóng một chốc đã đến kinh đô. Nhưng khi phóng qua chỗ lội, Tấm đánh rơi một chiếc giày xuống nước, không kịp nhặt. Khi ngựa dừng lại ở đám hội, Tấm lấy khăn gói chiếc giày còn lại rồi chen vào biển người.

Giữa lúc ấy đoàn xa giá cũng vừa tiến đến chỗ lội. Hai con voi ngự dẫn đầu đoàn đến đấy tự nhiên cắm ngà xuống đất kêu rống lên, không chịu đi. Vua sai quân lính xuống nước thử tìm xem; họ nhặt ngay được chiếc giày thêu của Tấm lúc nãy đánh rơi xuống đó. Vua ngắm ngía chiếc giày không chán mắt, bụng bảo dạ: -“Chà, một chiếc giày thật xinh! Người đi giày này hẳn là một trang tuyệt sắc(10)”.

Lập tức vua hạ lệnh cho rao mời tất cả đám đàn bà con gái đi xem hội đến ướm thử, hễ ai đi vừa chiếc giày thì vua sẽ lấy làm vợ. Đám hội lại càng náo nhiệt vì các bà, các cô chen nhau đến chỗ thử giày. Cô nào cô ấy lần lượt kéo vào ngôi lầu giữa bãi cỏ rộng để ướm một tí cầu may. Nhưng chả có một chân nào đi vừa cả. Mẹ con Cám cũng trong số đó. Khi Cám và dì ghẻ bước ra khỏi lầu thì gặp Tấm. Cám mách mẹ:

– Mẹ ơi, ai như chị Tấm cũng đi thử giày đấy!

Mụ dì ghẻ của Tấm bĩu môi:

– Con nỡm! Chuông khánh(11) còn chả ăn ai, nữa là mảnh chĩnh(12) vứt ngoài bờ tre.

Nhưng khi Tấm đặt chân vào giày thì vừa như in. Nàng mở khăn lấy luôn chiếc thứ hai đi vào. Hai chiếc giày giống nhau như đúc. Bọn lính hầu hò reo vui mừng. Lập tức vua sai đoàn thị nữ rước nàng vào cung. Tấm bước lên kiệu trước con mắt ngạc nhiên và hằn học của mẹ con Cám.

Tuy sống sung sướng trong hoàng cung, Tấm vẫn không quên ngày giỗ cha. Nàng xin phép vua trở về nhà để soạn cỗ cúng giúp dì. Mẹ con Cám thấy Tấm sung sướng thì ghen ghét để bụng. Nay thấy Tấm về, lòng ghen ghét lại bừng bừng bốc lên. Nghĩ ra được một mưu, mụ dì ghẻ bảo Tấm:

– Trước đây con quen trèo cau, con hãy trèo xé lấy một buồng để cúng bố.

Tấm vâng lời trèo lên cây cau. Lúc lên đến sát buồng thì ở dưới dì ghẻ cầm dao đẵn gốc. Thấy cây rung chuyển,

Tấm hỏi:

– Dì làm gì dưới gốc cây thế?

– Gốc cau lắm kiến, dì đuổi kiến cho nó khỏi lên đốt con.

Nhưng Tấm chưa kịp xé cau thì cây đã đổ, Tấm ngã lộn cổ xuống ao, chết. Mụ dì ghẻ vội vàng lột quần áo của Tấm cho con mình mặc vào rồi đưa vào cung nói dối vua rằng Tấm không may bị rơi xuống ao chết đuối, nay đưa em vào để thế chị. Vua nghe xong, trong bụng không vui, nhưng vẫn không nói gì cả.

Lại nói chuyện Tấm chết hóa làm chim vàng anh. Chim bay một mạch về kinh, đến vườn ngự(13). Thấy Cám đang giặt áo cho vua ở giếng, vàng anh dừng lại trên một cành cây, bảo nó:

– Phơi áo chồng tao, phơi lao phơi sáo(14), chớ phơi bờ rào, rách áo chồng tao.

Rồi chim vàng anh bay thẳng vào cung đậu ở cửa sổ, hót lên rất vui tai. Vua đi đâu, chim bay đến đó. Vua đang nhớ Tấm khôn nguôi, thấy chim quyến luyến theo mình, vua bảo:

– Vàng ảnh vàng anh, có phải vợ anh, chui vào tay áo.

Chim vàng anh bay lại đậu vào tay vua, rồi rúc vào tay áo. Vua yêu quý vàng anh quên cả ăn ngủ. Vua sai làm một cái lồng bằng vàng cho chim ở. Từ đó, ngày đêm, vua chỉ mê mải với chim, không tưởng đến Cám.

Cám vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo cứ bắt chim làm thịt ăn rồi kiếm điều nói dối vua. Trở lại cung vua, Cám nhân lúc vua đi vắng, bắt chim làm thịt nấu ăn, rồi vứt lông chim ở ngoài vườn. Thấy mất vàng anh, vua hỏi, Cám đáp:

– Có mang thèm ăn thịt chim nên trộm phép bệ hạ đã giết thịt ăn mất rồi.

Vua không nói gì cả. Lông chim vàng anh ở vườn hóa ra hai cây xoan đào(15). Khi vua đi chơi vườn ngự, cành lá của chúng sà xuống che kín thành bóng tròn như hai cái lọng(16). Vua thấy cây đẹp rợp bóng, sai lính hầu mắc võng vào hai cây rồi nằm chơi hóng mát. Khi vua đi khỏi thì cành cây lại vươn thẳng trở lại. Từ đó, không ngày nào là vua không ra nằm hóng mát ở hai cây xoan đào.

Cám biết chuyện ấy lại về mách mẹ. Mẹ nó bảo cứ sai thợ chặt cây làm kung cửi rồi kiếm điều nói dối vua. Về đến cung, nhân một hôm gió bão, Cám sai thợ chặt hai cây xoan đào lấy gỗ đóng kung cửi. Thấy cây bị chặt, vua hỏi thì Cám đáp:

– Cây bị đổ vì bão, thiếp sai thợ chặt làm khung cửi để dệt áo cho bệ hạ.

Nhưng khi khung cửi đóng xong, Cám ngồi vào dệt, lúc nào cũng nghe thấy tiếng khung cửi rủa mình:

Cót ca cót két,
Lấy tranh chồng chị,
Chị khoét mắt ra.

Thấy vậy Cám sợ hãi vội về nhà mách mẹ. Mẹ nó bảo đốt quách khung cửi rồi đem tro đi đổ cho rõ xa để được yên tâm. Về đến cung, Cám làm như lời mẹ nói. Nó mang tro đi đổ ở lề đường cách xa hoàng cung. Từ đống tro bên đường lại mọc lên một cây thị cao lớn, cành lá sum sê. Đến mùa, cây thị chỉ đậu được có một qủa , nhưng mùi thơm ngát tỏa ra khắp nơi. Có bà lão hàng nước gần đó, một hôm đi qua dưới gốc, ngửi thấy mùi thơm, ngửng đầu nhìn lên, thấy quả thị trên cành cao, bèn giơ bị ra và nói lẩm bẩm:

– Thị ơi thị, rụng vào bị(17) bà, bà đem bà ngửi, chứ bà không ăn.

Bà lão vừa nói dứt lời thì quả thị rụng ngay xuống đúng vào bị. Bà lão nâng niu đem về nhà cất trong buồng, thỉnh thoảng lại vào ngắm nghía và ngửi mùi thơm.

Ngày nào bà lão cũng đi chợ vắng. Từ trong quả thị chui ra một cô gái thân hình bé nhỏ như ngón tay nhưng chỉ trong chớp mắt đã biến thành Tấm. Tấm vừa bước ra đã cầm chổi quét dọn nhà cửa sạch sẽ, rồi đi vo gạo thổi cơm, hái ra ở vườn nấu canh giúp bà hàng nước. Đoạn Tấm lại thu hình bé nhỏ như cũ rồi chui vào vỏ thị. Lần nào đi chợ về, bà lão cũng thấy nhà cửa ngăn nắp, cơm ngon canh ngọt sẵn sàng thì lấy làm lạ.

Một hôm bà hàng nước giả vờ đi chợ, đến nửa đường lại lén trở về, rình ở bụi cây sau nhà. Trong khi đó, Tấm từ quả thị chui ra rồi cũng làm các việc như mọi lần. Bà lão rón rén lại, nhìn vào khe cửa. Khi thấy một cô gái xinh đẹp thì bà mừng quá, bất thình lình xô cửa vào ôm choàng lấy Tấm, đoạn xé vụn vỏ thị. Từ đó Tấm ở với bà hàng nước, hai người thương yêu nhau như mẹ con. Hằng ngày Tấm giúp bà lão các việc thổi cơm, nấu nước, gói bành, têm trầu để cho bà ngồi bán hàng.

Một hôm vua đi chơi, ra khỏi hoàng cung. Thấy có quán nước bên đường sạch sẽ bèn ghé vào. Bà lão mang trầu nước dâng lên vua. Thấy trầu têm cánh phượng(18), vua sực nhớ tới trầu vợ mình têm ngày trước cũng y như vậy, liền phán hỏi:

– Trầu này ai têm?

– Trầu này con gái già têm – Bà lão đáp.

– Con gái của bà đâu, gọi ra đây cho ta xem mặt.

Bà lão gọi Tấm ra, Tấm vừa xuất hiện, vua nhận ra ngay vợ mình ngày trước, có phần trẻ đẹp hơn xưa. Vua mừng quá, bảo bà hàng nước kể lại sự tình, rồi truyền cho quân hầu đưa kiệu rước Tấm về cung.

Cám thấy Tấm trở về được vua yêu thương như xưa thì nó không khỏi sợ hãi. Một hôm, Cám hỏi chị:

– Chị Tấm ơi chị Tấm, chị làm thế nào mà đẹp thế?

Tấm không đáp, chỉ hỏi lại:

– Có muốn đẹp không để chị giúp?

Cám bằng lòng ngay. Tấm sai quân hầu đào một cái hố sâu và đun một nồi nước sôi. Tấm bảo Cám xuống hố rồi sai quân hầu dội nước sôi vào hố. Cám chết. Mụ dì ghẻ thấy vậy cũng lăn đùng ra chết…

(Theo NGUYỄN ĐỔNG CHI, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 4, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975)

Dưới đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Tấm Cám sgk Ngữ văn 10 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:


HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

Tóm tắt:

Tấm và Cám là hai chị em cùng cha khác mẹ. Tấm hiền lành, chăm chỉ, tốt bụng. Cám thì lười biếng, được cưng chiều. Vì bố mất sớm nên Tấm phải ở cùng với người gì ghẻ và người em cùng cha khác mẹ là Cám. Tấm luôn bị mẹ con Cám đối xử bất công và cực nhọc. Một lần Tấm và Cám đi bắt tép, ai bắt được nhiều tép hơn sẽ được thưởng. Cám lừa Tấm lên bờ rồi chút hết tép trong giỏ của Tấm vào giỏ mình. Trong giỏ của Tấm chỉ còn lại một con cá bống. Tấm khóc nức nở và được Bụt hiện lên giúp đỡ. Nhờ sự giúp đỡ của Bụt, Tấm có người bạn để tâm sự là cá bống, có quần áo mặc đi chơi hội, được bầy chim sẽ giúp đỡ. Đến ngày hội làng, khi đi xem hội Tấm lỡ đánh rơi một chiếc giày và được nhà vua nhặt được. Vua truyền lệnh: hễ ai ướm giày vừa chân thì vua sẽ lấy làm hoàng hậu. Tấm đi vừa chiếc giày và trở thành hoàng hậu. Thấy vậy, mẹ con Cám ghen tị. Một lần Tấm về giỗ cha, nàng trèo lên hái cau thì mẹ con Cám chặt cây cau và hại chết Tấm. Sau lần ấy, Cám vào cung tiến cung. Tấm nhiều lần hóa thân biến thành con chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, và cuối cùng là trong quả thị để trở thành con gái của bà cụ. Nhờ miếng trầu têm mà vua nhận ra Tấm. Nàng trở lại làm hoàng hậu. Mẹ con Cám chết.

Bố cục: (3 phần )

– Phần 1 (từ đầu … “việc nặng”): giới thiệu các nhân vật

– Phần 2 (tiếp … “bà ngồi bán hàng”): sự hóa thân và đấu tranh của Tấm

– Phần 3 (còn lại): Tấm được trở về đoàn tụ với vua

Nội dung chính:

Truyện cổ tích Tấm Cám phản ánh những xung đột xã hội sâu sắc, đồng thời, thể hiện khát vọng cháy bỏng của nhân dân lao động về một xã hội công bằng, hạnh phúc.


1. Câu 1 trang 72 Ngữ văn 10 tập 1

Phân tích diễn biến của truyện để thấy mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám đã diễn ra như thế nào (lưu ý các đoạn về cái yếm đỏ, con bống, thử giày, cái chết của Tấm, chim vàng anh, chiếc khung cửi).

Trả lời:

– Sự việc chiếc yếm đỏ: Cám lừa lấy hết tôm tép của Tấm và giành được yếm đỏ → Tấm khóc, Bụt hiện lên an ủi và khuyên Tấm đem cá bống còn sót lại về nuôi.

– Sự việc cá bống: mẹ con Cám rình bắt bống ăn thịt → mất người bạn thân thiết, Tấm khóc, Bụt hiện lên dặn Tấm chôn xương bống vào bốn chân giường.

– Sự việc Tấm đi xem hội – thử giày: dì ghẻ trộn thóc và gạo bắt Tấm ở nhà nhặt để không cho Tấm đi hội

⇒ Tấm khóc, Bụt hiện lên sai đàn chim giúp Tấm nhặt thóc, lại bảo Tấm lấy quần áo dưới bốn chân giường để đi hội.

– Sự việc cái chết của Tấm: Tấm trèo hái cau để cúng giỗ cha, dì ghẻ ở dưới chặt cây à Tấm chết, dì ghẻ đưa Cám vào thế chỗ Tấm trong cung.

– Sự việc chim vàng anh: Chim vàng anh về quấn quýt bên vua và cảnh cáo Cám (Phơi áo chồng tao…rách áo chồng tao) à mẹ con Cám bảo nhau giết vàng anh ăn thịt.

– Sự việc cây xoan đào và khung cửi: Cây xoan đào tỏa bóng mát cho vua nằm võng, khung cửi để dệt áo cho vua, khung cửi kết tội Cám (Cót ca cót két …khoét mắt ra) → mẹ con Cám bảo nhau chặt cây, đốt khung cửi.

– Sự việc gắn với bà lão hàng nước và quả thị: Tấm hóa thành quả thị rồi về ở với bà hàng nước, sau vua nhờ miếng trầu Tấm têm ở hàng nước mà nhận ra vợ và đưa về cung.

⇒ Mâu thuẫn giữa Tấm và mẹ con Cám phát triển từ thấp đến cao, trở thành mâu thuẫn sống còn. Trong đó, mẹ con Cám tàn nhẫn độc ác, tận diệt Tấm đến cùng. Tấm từ nạn nhân thụ động chỉ biết khóc và nương nhờ vào Bụt trở nên mạnh mẽ, hành động quyết liệt.

⇒ Mâu thuẫn có 2 giai đoạn: mâu thuẫn quyền lợi trong gia đình (từ đầu đến đoạn Tấm đi hội) và mâu thuẫn xã hội dữ dội một mất một còn (từ khi Tấm chết cho đến hết).


2. Câu 2 trang 72 Ngữ văn 10 tập 1

Phân tích từng hình thức biến hóa của Tấm. Quá trình biến hóa của Tấm nói lên ý nghĩa gì?

Trả lời:

 Tấm hóa thân thành chim vàng anh, cây xoan đào, khung cửi, quả thị: đều là những vật bình dị, gần gũi nhưng thơm tho, hữu ích, đáng quý trong đời sống nhân dân.

– Những lần hóa thân này chẳng những gợi vẻ đẹp của Tấm mà còn gợi những phẩm chất tốt đẹp và tinh thần tranh đấu của Tấm (trong những lần hóa thân này, Tấm kết tội Cám, quấn quýt bên nhà vua và vẫn sống trong cung đúng vị trí của mình, Cám không thể thay thế).

 Tấm ẩn mình trong quả thị và sau hóa lại làm người: Tấm trở lại là chính mình và làm lại cuộc đời, chi tiết này cho thấy chiến thắng của Tấm trước mẹ con Cám tàn độc.

⇒ Quá trình biến hóa thể hiện sức sống mãnh liệt và sự chiến thắng của Tấm, của  cái thiện và của công lý.


3. Câu 3 trang 72 Ngữ văn 10 tập 1

Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về hành động trả thù của Tấm đối với Cám?

Trả lời:

Tấm trả thù Cám bằng cách dội nước sôi cho Cám chết, dì ghẻ biết tin cũng lăn ra chết.

Kết thúc này cho thấy tinh thần đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân, cái ác phải bị trừng trị, con người không chỉ biết yêu thương hay sống lương thiện mà còn phải biết căm hờn, biết diệt trừ cái xấu.

⇒ Đây là cái kết hợp lí, thỏa mãn ước mơ công lí của nhân dân: ở hiền gặp lành ác giả ác báo.


4. Câu 4 trang 72 Ngữ văn 10 tập 1

Bản chất của mâu thuẫn và xung đột trong truyện (Tấm và mẹ con Cám đại diện cho các lực lượng đối lập nào, trong gia đình hay ngoài xã hội?).

Trả lời:

 Mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn trong gia đình phụ quyền thời cổ giữa dì ghẻ và con chồng. Nguyên nhân là vấn đề thừa kế gia sản, quyền lợi vật chất giữa các thành viên.

– Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa cái thiện và cái ác. Tấm đại diện cho cái thiện, sự ngay thẳng, mẹ con Cám hiện thân của cái ác, giả dối, lười biếng.

– Mâu thuẫn thứ ba là mâu thuẫn giai cấp: mâu thuẫn giữa người bị áp bức với kẻ áp bức.


LUYỆN TẬP

Câu hỏi trang 72 Ngữ văn 10 tập 1

Căn cứ vào định nghĩa truyện cổ tích ở bài Khái quát văn học dân gian Việt Nam và mục Tiểu dẫn của bài này, hãy tìm trong Tấm Cám những dẫn chứng để phân tích, làm rõ các đặc trưng của truyện cổ tích thần kì.

Trả lời:

Đặc trưng của thể loại truyện cổ tích thần kì được biểu hiện trong Tấm Cám:

– Cốt truyện có sự tham gia của nhiều yếu tố thần kì: nhân vật ông Bụt, xương cá Bống và những lần biến hóa của nhân vật Tấm

– Truyện được kết cấu theo khuôn mẫu phổ biến của truyện cổ tích thần kì: nhân vật chính phải trải qua nhiều hoạn nạn cuối cùng mới được hưởng hạnh phúc.

– Truyện phản ánh những xung đột trong xã hội thời kì đã có sự phân chia giai cấp.

– Thể hiện ước mơ của nhân dân lao động về sự công bằng, hạnh phúc gia đình.

– Truyện kết thúc có hậu thể hiện tư tưởng nhân đạo của nhân dân ta.


CÁC BÀI VĂN HAY


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Tấm Cám sgk Ngữ văn 10 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các em làm bài Ngữ văn thật tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com