Soạn bài Văn bản văn học sgk Ngữ văn 10 tập 2

Nội dung bài Soạn bài Văn bản văn học sgk Ngữ văn 10 tập 2 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, phân tích, cảm nhận, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn lớp 10 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn và ôn thi THPT Quốc gia.


VĂN BẢN VĂN HỌC

I – TIÊU CHÍ CHỦ YẾU CỦA VĂN BẢN VĂN HỌC

Ta chưa bàn đến những tiêu chí chung nhất, nghiêm ngặt nhất cho tất cả văn bản văn học của mọi thời đại, mọi quốc gia. Ngày nay, nói chung, đa số nhận diện một văn bản văn học theo các tiêu chí sau:

1. Văn bản văn học (truyện cổ tích, bài thơ, cuốn tiểu thuyết, thiên bút kí, vở kịch,…) là những văn bản đi sâu phản ánh hiện thực khách quan và khám phá thế giới tình cảm và tư tưởng, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Những chủ đề như tình yêu, hạnh phúc, băn khoăn đau khổ, khát vọng vươn đến chân – thiện – mĩ,… thường trở đi trở lại với những chiều sâu và sắc thái khác nhau trong văn bản văn học.

2. Văn bản văn học được xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mĩ cao. Nó không trần trụi, bộc trực, đơn nghĩa. Sử dụng nhiều phép tu từ (ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, tượng trưng,…), văn bản văn học thường hàm súc, gợi lên nhiều liên tưởng, tưởng tượng. Văn bản nào cũng phải có ý nghĩa. Văn bản văn học cũng vậy. Nhưng khi xác định một văn bản văn học phải chú ý đến phẩm chất của ngôn từ diễn đạt.

Có những văn bản lúc ra đời nhằm những mục đích thực tiễn, về sau lại được xem là văn bản văn học, khi ý nghĩa cao sâu đã hài hòa với cách diễn đạt hoàn hảo, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của người đọc.

3. Văn bản văn học được xây dựng theo một phương thức riêng – nói cụ thể hơn là mỗi văn bản văn học đều thuộc về một thể loại nhất định, và theo những quy ước, cách thức của thể loại đó. Kịch bản có hồi, có cảnh, có lời đối thoại, độc thoại,… Thơ thì có vần điệu, luật, có câu thơ, khổ thơ,… Truyện lại có những quy ước về xây dựng nhân vật, kết cấu cốt truyện, các loại lời văn,…

Tuy vậy, văn bản văn học không chỉ là những biện pháp, những kĩ xảo ngôn từ mà là một sáng tạo tinh thần của nhà văn. Tư tưởng, tình cảm, những trải nghiệm trường đời sâu sắc là điều không thể thiếu trong những tác phẩm lớn. Và nếu không có tư tưởng, tình cảm đúng, không đồng cảm với niềm vui và nỗi đau của con người, người đọc cũng khó có thể hiểu được cái hay cái đẹp của văn bản văn học.


II – CẤU TRÚC CỦA VĂN BẢN VĂN HỌC

Cấu trúc của văn bản văn học mang nhiều tầng lớp, ta cần tìm hiểu để có thể tiếp nhận được cái hay cái đẹp của nó.

Nhìn chung, cần chú ý đến các tầng, lớp sau đây khi tiếp cận một văn bản văn học:

1. Tầng ngôn ngữ – từ ngữ âm đến ngữ nghĩa

Đọc văn bản, ta phải hiểu rõ ngữ nghĩa của từ, từ nghĩa tường minh đến hàm nghĩa, từ nghĩa đen đến nghĩa bóng (ví dụ: con chó sói, lòng lang dạ sói; mùa xuân, tuổi xuân; ngôi sao đêm, ngôi sao điện ảnh,…). Cùng với ngữ nghĩa phải chú ý đến ngữ âm.

Ví dụ:

Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh.

Những câu bốn chữ, những từ láy liên tiếp: loắt choắt, thoăn thoắt, xinh xinh, nghênh nghênh với âm thanh của nó cũng gợi lên một cái gì nhanh nhẹn, tươi trẻ.

Tầng ngôn từ là bước thứ nhất cần phải vượt qua để đi vào chiều sâu của văn bản.

2. Tầng hình tượng

Hình tượng được sáng tạo trong văn bản nhờ những chi tiết, cốt truyện, nhân vật, hoàn cảnh, tâm trạng (tùy quy mô văn bản: truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài,… và tùy thể loại: tự sự, trữ tình, kịch,…) mà có sự khác nhau.

Lấy một văn bản gọn nhỏ như bốn câu ca dao sau đây làm ví dụ:

Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Tác giả dùng hình tượng, màu sắc, hương vị để nói lên ý của mình. Câu 2, 3 tưởng như trùng lặp, nhưng đó là sự quan sát từ ngoài vào trong (lá xanh, bông trắng, nhị vàng), rồi lại quan sát từ trong ra ngoài (nhị vàng, bông trắng, lá xanh). Nhờ sự quan sát kĩ càng từ nhiều phía nên câu kết càng có sức nặng, từ hình tượng hoa sen đó, ta suy ra hàm nghĩa của bài.

Cành mai trong thơ của thiền sư Mãn Giác:

Đừng tưởng hoa tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một cành mai.

hoặc cây tùng trong thơ Nguyễn Trãi:

Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đông.
Lâm tuyền ai rặng già làm khách,
Tài đống lương cao ắt cả dùng.

không nhằm nói về cây mai, cây tùng, mà chính là muốn xây dựng nên những hình tượng để gửi gắm tình ý với cuộc đời.

3. Tầng hàm nghĩa

Khi gặp một người, điều dễ thấy là gương mặt, hình dáng bên ngoài. Dần dần qua tiếp xúc ta mới hiểu chiều sâu ẩn kín trong tâm hồn của họ. Đọc tác phẩm văn học cũng vậy: từ tầng ngôn ngữ đến tầng hình tượng, dần dần ta tìm ra tầng hàm nghĩa (ý nghãi ẩn kín, ý nghĩa tiềm tàng) của văn bản.

Có tìm ra hàm nghĩa ta mới hiểu được những điều nhà văn muốn tâm sự, những thể nghiệm về cuộc sống, những quan niệm về đạo đức xã hội, những hoài bão,… Đó là những “tấc lòng” mà nhà văn muốn kí thác cho đời.

Bài ca dao Trong đầm gì đẹp bằng sen không chỉ nói về hoa sen. Từ hình tượng hoa sen đẹp và thơm giữa bùn lầy, người nghệ sĩ dân gian ca ngợi chí khí giữ vững sự trong sạch của con người. Thói thường khi nói về những khiếm khuyết trong tính cách, người ta thường đổ lỗi cho hoàn cảnh. Thật ra, những người có bản lĩnh vẫn giữ được phẩm chất của mình trong môi trường không thuận lợi. Bài Cáo tật thị chúng (Cáo bệnh, bảo mọi người) có câu:

Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một cành mai.

Tác giả không chỉ kể về một sự thật. Hình ảnh hoa rụng hoa nở nói về sự sống tuần hoàn bất diệt. Đó là cái nhìn bình thản yêu đời của người hiểu rõ quy luật, nắm vững chân lí.

Khi nghiền ngẫm hàm nghĩa của bải văn, bài thơ là lúc ta nâng cao tâm hồn mình, làm cho cuộc sống nội tâm trở nên sâu sắc, phong phú hơn.

Để đi sâu vào hàm nghĩa của văn bản văn học, ta cần đi qua các lớp: đề tài, chủ đề, tư tưởng, cảm hứng chủ đạo,… Điều này sẽ nói ở bài sau.


III – TỪ VĂN BẢN ĐẾN TÁC PHẨM VĂN HỌC

Nhà văn sáng tác ra văn bản văn học. Đó là một hệ thống kí hiệu tồn tại khách quan. Khi nằm im trên giá sách, văn bản là một tập giấy có chữ, chưa thể nói đến tác động của nó đối với xã hội. Chỉ có thông qua việc đọc, hệ thống kí hiệu ấy mới hiện lên trong tâm trí người đọc những sự việc, những hình tượng nhân vật, những suy nghĩ vui buồn của con người và cuộc đời. Và những giá trị văn học vốn tiềm ẩn trong văn bản sẽ được người đọc tiếp nhận. Như nốt nhạc được xướng lên, văn bản văn học lúc đó mới thực sự phát huy chức năng của tác phẩm văn học. Người đọc càng trải nghiệm sâu sắc cuộc sống, càng hiểu biết thấu đáo quy luật nghệ thuật, nội dung tác phẩm càng hiện lên đầy đủ hơn, phong phú hơn trong tâm trí. Bấy giờ mới có thể nói đến tác động của tác phẩm với con người, với cuộc đời.


HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Câu 1 trang 121 Ngữ văn 10 tập 2

Hãy nêu những tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học.

Trả lời:

Những tiêu chí chủ yếu của văn bản văn học (VBVH):

– VBVH đi sâu phản ánh hiện thực khách quan và khám phá thế giới tư tưởng, tình cảm, thỏa mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người.

– VBVH xây dựng bằng ngôn từ nghệ thuật, có hình tượng, có tính thẩm mĩ cao.

– VBVH xây dựng theo một phương thức riêng, mỗi VBVH đều thuộc một thể loại nhất định, tuân thủ quy ước và cách thức của thể loại đó (thơ, truyện, kịch…).


2. Câu 2 trang 121 Ngữ văn 10 tập 2

Vì sao nói: hiểu tầng ngôn ngữ mới là bước thứ nhất cần thiết để đi vào chiều sâu của văn bản văn học?

Trả lời:

Nói hiểu tầng ngôn ngữ mới là bước đầu cần thiết để đi vào chiều sâu của văn bản văn học vì cấu trúc của VBVH mang nhiều tầng lớp bao gồm tầng ngôn từ, tầng hình tượng, tầng hàm nghĩa.

– Trong đó, vượt qua tầng ngôn từ, người đọc mới nắm bắt được ngữ âm, ngữ nghĩa trên bề mặt của tác phẩm.

– Từ đó, người đọc có cơ sở để nhận diện và khám phá tầng hình tượng (thể hiện ở chi tiết, cốt truyện, nhân vật, hoàn cảnh, tâm trạng…).

– Từ tầng ngôn từ, tầng hình tượng, người đọc mới có thể khám phá tầng hàm nghĩa ẩn sâu bên trong, tức là hiểu điều nhà văn muốn tâm sự, kí thác (nói theo nguyên lí “tảng băng trôi” của nhà văn Mĩ Hê-ming-uê là phần băng chìm khó nhận diện ở bên dưới).


3. Câu 3 trang 121 Ngữ văn 10 tập 2

Phân tích ý nghĩa một hình tượng mà anh (chị) yêu thích trong một bài thơ, hoặc đoạn thơ ngắn.

Trả lời:

Phân tích ý nghĩa một hình tượng yêu thích trong một bài/đoạn thơ ngắn:

VD: Hình tượng tấm lụa đào trong bài ca dao.

Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

– Nghĩa ngôn từ: Cô gái so sánh thân mình giống như tấm lụa đào giữa chợ.

– Nghĩa hình tượng:

+ Đặc điểm của tấm lụa đào: quý giá, đẹp đẽ, mềm mại, đáng trân trọng.

+ Hoàn cảnh của tấm lụa đào: bị bán ở chợ, không biết sẽ vào tay người mua nào.

+ Nghĩa hàm ẩn: qua sự tương đồng giữa thân phận của mình với đặc điểm, hoàn cảnh của tấm lụa đào, cô gái vừa khẳng định giá trị bản thân vừa xót xa, lo lắng cho cuộc đời mình không biết sẽ gặp người bạn đời như thế nào. Bởi trong xã hội xưa, người con gái không được tự quyết chuyện trăm năm của mình.

Hoặc:

Ví dụ trong câu ca dao:

Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?

Khi chàng trai nói đến chuyện tre, đan sàng thì câu ca dao không chỉ mang ý nghĩa tả thực như vậy. Nó còn mang ý nghĩa chỉ chuyện tình yêu nam nữ, chỉ chuyện ướm hỏi, chuyện cưới xin.


4. Câu 4 trang 121 Ngữ văn 10 tập 2

Hàm nghĩa của văn bản văn học là gì? Cho ví dụ cụ thể.

Trả lời:

Hàm nghĩa của văn bản văn học:

Khái niệm: là ý nghĩa ẩn kín, ý nghĩa tiềm tàng trong VBVH. Cụ thể, đó là những điều nhà văn muốn tâm sự, muốn thể nghiệm về cuộc sống, những quan niệm đạo đức xã hội, những hoài bão. Đó là thông điệp nhà văn muốn gửi gắm cho đời.

Ví dụ:

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn

(Trích “Tự tình” II- Hồ Xuân Hương)

Tác giả miêu tả hành động, trạng thái của từng đám rêu mọc xiên ngang mặt đất, hình ảnh mấy hòn đá vươn lên “đâm toạc” chân mây. Chúng có sức sống mãnh liệt dù bé nhỏ, bình thường. Hàm nghĩa ở đây là thái độ bất bình, ngang tàng, phản kháng của Hồ Xuân Hương muốn chống lại số phận bé nhỏ, bấp bênh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đó cũng là bản lĩnh Xuân Hương, cá tính Xuân Hương độc đáo, mạnh mẽ.

Ví dụ:

– Bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương mới đọc qua tưởng chỉ là chuyện của chiếc bánh trôi, từ đặc điểm đến các cung đoạn làm bánh. Nhưng hàm chứa trong đề tài bánh trôi là cảm hứng về cuộc đời và thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Người phụ nữ than thân trách phận nhưng không dừng lại ở đó, còn khẳng định vẻ đẹp của mình và lên tiếng phê phán xã hội bất công, vô nhân đạo.

– Truyện ngắn Bến quê của Nguyễn Minh Châu bao hàm nhiều ý nghĩa triết lí về con người và cuộc đời thông qua rất nhiều những nghịch lí:

+ Trong đời mỗi con người, có nhiều chuyện mà ta không lường trước được, không tính hết được bởi có những việc xảy ra ngoài ý muốn (Nhĩ, nhân vật chính của truyện, đã từng đi khắp nơi, cuối đời bị căn bệnh quái ác phải nằm liệt giường).

+ Con người, đôi khi vì những “vòng vèo, chùng chình” đã không thể đến được nơi mà mình cần đến, mặc dù nơi ấy ở ngay trước mặt (Nhĩ đã không thể sang được bãi bồi bên kia sông, ngay trước nhà mình).

+ Đôi khi, người ta cứ mải mê đi tìm những giá trị ảo tưởng trong khi có những giá trị quen thuộc, gần gũi mà bền vững thì lại bỏ qua để khi nhận ra thì quá muộn (khi nằm liệt giường, Nhĩ mới nhận ra vẻ đẹp của “Bến quê”, vẻ đẹp của người vợ tảo tần sống gần trọn đời với mình).

+ Hãy biết trân trọng cuộc sống, trân trọng những gì thuộc về “Bến quê”, đó là bức thông điệp mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi đến mọi người thông qua những triết lí giản dị mà sâu sắc của tác phẩm.


LUYỆN TẬP

Câu hỏi trang 121 Ngữ văn 10 tập 2

Đọc các văn bản sau và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới.

(1) NƠI DỰA

Người đàn bà nào dắt đứa nhỏ đi trên đường kia?

Khuôn mặt trẻ đẹp chìm vào những miền xa nào…

Đứa bé đang lẫm chẫm muốn chạy lên, hai chân nó cứ ném về phía trước, bàn tay hoa hoa một điệu múa kì lạ.

Và cái miệng nhỏ líu lo không thành lời, hát một bài hát chưa từng có.

Ai biết đâu, đứa bé bước còn chưa vững lại chính là nơi dựa cho người đàn bà kia sống.

Người chiến sĩ nào đỡ bà cụ trên đường kia?

Đôi mắt anh có cái ánh riêng của đôi mắt đã nhiều lần nhìn vào cái chết.

Bà cụ lưng còng tựa trên cánh tay anh, bước từng bước run rẩy.

Trên khuôn mặt già nua, không biết bao nhiêu nếp nhăn đan vào nhau, mỗi nếp nhăn chứa đựng bao nỗi cực nhọc gắng gỏi một đời.

Ai biết đâu, bà cụ bước không còn vững lại chính là nơi dựa cho người chiến sĩ kia đi qua những thử thách.

(Nguyễn Đình Thi, Tia nắng, NXB Văn học, Hà Nội, 1983)

a) Hãy tìm hai đoạn có cấu trúc (cách tổ chức) câu, hình tượng tương tự nhau của bài Nơi dựa.

b) Những hình tượng (người đàn bà – em bé, người chiến sĩ – bà cụ già) gợi lên những suy nghĩ gì về nơi dựa trong cuộc sống?

(2) THỜI GIAN

Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỉ niệm trong tôi
Rơi
     như tiếng sỏi
           trong lòng giếng cạn

Riêng những câu thơ
           còn xanh
Riêng những bài hát
           còn xanh
Và đôi mắt em
           như hai giếng nước.

(Văn Cao, , NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1998)

a) Theo anh (chị), các câu sau đây hàm chứa ý nghĩa gì?

– Kỉ niệm trong tôi
Rơi
     như tiếng sỏi
           trong lòng giếng cạn

– Riêng những câu thơ
           còn xanh
– Riêng những bài hát
           còn xanh

(đối sánh với hai câu mở đầu của bài, chú ý từ xanh)

Và đôi mắt em
          như hai giếng nước.

b) Qua bài Thời gian, Văn Cao định nói lên điều gì?

(3) MÌNH VÀ TA

Mình là ta đấy thôi, ta vẫn gửi cho mình,
Sâu thẳm mình ư? Lại là ta đấy!
Ta gửi tro, mình nhen thành lửa cháy,
Gửi viên đá con, mình dựng lại nên thành.

(Chế Lan Viên, Ta gửi cho mình, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1986)

a) Giải thích rõ quan niệm của Chế Lan Viên về mối quan hệ giữa người đọc (mình) và nhà văn (ta) ở các câu 1, 2.

b) Nói rõ quan niệm của Chế Lan Viên về văn bản văn học và tác phẩm văn học trong tâm trí của người đọc ở các câu 3, 4.

Trả lời:

(1): Nơi dựa

– Bài “Nơi dựa” chia thành hai đoạn có cấu trúc, hình tượng, tứ thơ giống nhau:

+ Cấu trúc: câu mở đầu và câu kết thúc giống nhau (điệp cấu trúc cú pháp).

+ Tứ thơ, hình tượng thơ tương đồng: mỗi đoạn đều có hai nhân vật, trong mỗi cặp nhân vật lại có một người không thể tự bước đi vững vàng mà phải nhờ vào người còn lại (đứa bé nhờ vào mẹ – người mẹ già nhờ vào anh chiến sĩ).

– Những hình tượng trên gợi suy ngẫm sâu xa về chỗ dựa:

+ Nơi dựa giản đơn, dễ nhận thấy là chỗ dựa về sức khỏe, về vật chất: em bé phải dựa vào mẹ để tập đi, người mẹ già phải nhờ vào anh chiến sĩ để đi lại.

+ Nơi dựa sâu xa, quan trọng là chỗ dựa về tinh thần: em bé và người mẹ già yếu đều là nguồn sống, là chỗ dựa tình cảm để người mẹ trẻ và anh chiến sĩ có thể vượt qua thử thách.

(2): Thời gian

– Các câu thơ được trích dẫn hàm chứa ý nghĩa: khẳng định sự tàn phá, mài mòn khủng khiếp của thời gian (làm khô héo cảm xúc khiến kỉ niệm đã qua giờ khô khan như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn). Chỉ có thơ ca nghệ thuật và tình yêu vẫn luôn tràn đầy cảm xúc, tràn đầy sức sống bất diệt (còn xanh, như hai giếng nước) bất chấp thời gian.

– Thông điệp trong bài “Thời gian”: trong dòng thời gian thử thách, khắc nghiệt, chỉ có những giá trị chân chính mới tồn tại lâu bền (nghệ thuật, tình yêu).

(3): Mình và ta

– Mối quan hệ giữa người đọc và nhà văn (câu 1,2): mối quan hệ chặt chẽ, thống nhất, gần gũi, đồng cảm.

– VBVH và TPVH trong tâm trí người đọc (câu 3,4): VBVH, TPVH là các tác phẩm ngôn từ, thông điệp đã được ẩn trong các hình tượng, các câu từ. Nhờ có sự tiếp nhận, cảm thụ, trí hình dung tưởng tượng của người đọc mà những hình tượng ấy, ngôn từ ấy trở nên sinh động, hiện thực hóa và thực sự sống cuộc đời đích thực của nó. Nếu không được tiếp nhận trong tâm trí người đọc, VBVH hay TPVH mãi chỉ là những văn bản chết.


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Văn bản văn học sgk Ngữ văn 10 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các em làm bài Ngữ văn thật tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com