Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sgk Ngữ văn 11 tập 1

Nội dung bài Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sgk Ngữ văn 11 tập 1 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, phân tích, cảm nhận, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn lớp 11 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn và ôn thi THPT Quốc gia.


VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC

NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

PHẦN MỘT: TÁC GIẢ

I – CUỘC ĐỜI

Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) nhà Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh tại quê mẹ – làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Ông xuất thân trong gia đình nhà nho, cha là Nguyễn Đình Huy, người Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên – Huế), vào Gia Định làm thư lại tại dinh Tổng trấn Lê Văn Duyệt. ở đây, ông lấy bà Trương Thị Thiệt làm vợ thứ, sinh ra Nguyễn Đình Chiểu. Năm 1843, Nguyễn Đình Chiểu đỗ tú tài tại trường thi Gia Định. Năm 1846, ông ra Huế học, chuẩn bị thi tiếp tại quê cha, nhưng lúc sắp vào trường thi thì nhận được tin mẹ mất, phải bỏ thi trở về Nam chịu tang (1849). Dọc đường về, Nguyễn Đình Chiểu bị đau mắt nặng rồi bị mù. Không khuất phục trước số phận oan nghiệt, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh cho dân, và tiếng thơ Đồ Chiểu cũng bắt đầu vang khắp miền Lục tỉnh.

Khi giặc Pháp đánh vào Gia Định (1859), người trí thức yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã đứng vững trên tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, cùng các lãnh tụ nghĩa quân bàn mưu tính kế đánh giặc và sáng tác những vần thơ cháy bỏng căm hờn, sôi sục ý chí chiến đấu. Nam Kì mất, ông ở lại Ba Tri (Bến Tre). Thực dân Pháp tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc, nhưng ông khảng khái khước từ tất cả, giữ trọn tấm lòng thuỷ chung son sắt với nước với dân cho đến hơi thở cuối cùng.


II – SỰ NGHIỆP THƠ VĂN

1. Những tác phẩm chính

Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà thơ đầu tiên ở Nam Kì sáng tác chủ yếu bằng chữ Nôm. Cuộc đời sáng tác của ông chia làm hai giai đoạn, trước và sau khi thực dân Pháp xâm lược. Ở giai đoạn đầu, ông viết hai truyện thơ dài: Truyện Lục Vân Tiên và Dương Từ – Hà Mậu, đều nhằm mục đích truyền bá đạo lí làm người. Đến giai đoạn sau, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là lá cờ đầu của văn thơ yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX với những tác phẩm xuất sắc về cả nội dung tư tưởng, tình cảm và nghệ thuật như Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng, Văn tế nghĩa sĩ trận trong Lục tỉnh, Ngư Tiều y thuật vấn đáp (còn gọi là Ngư Tiều uẩn đáp nho y diễn ca, một truyện thơ dài).

Bằng ngòi bút, Nguyễn Đình Chiểu đã suốt đời chiến đấu không mệt mỏi cho đạo đức, chính nghĩa, cho độc lập tự do của dân tộc:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

(Dương Từ – Hà Mậu)

2. Nội dung thơ văn

– Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa: Nguyễn Đình Chiểu viết Truyện Lục Vân Tiên nhằm mục đích truyền dạy những bài học về đạo làm người chân chính. Đạo lí làm người của Nguyễn Đình Chiểu mang tinh thần nhân nghĩa của đạo Nho, nhưng lại rất đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc. Những mẫu người lí tưởng trong tác phẩm là những con người sống nhân hậu, thuỷ chung, biết giữ gìn nhân cách thẳng ngay, cao cả, dám đấu tranh và có đủ sức mạnh để chiến thắng những thế lực bạo tàn, cứu nhân độ thế, như lời của Lục Vân Tiên: “Tôi xin ra sức anh hào – Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”.

– Lòng yêu nước, thương dân: Khi cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp nổ ra, từ trên đỉnh cao của tư tưởng, tình cảm thời đại là lòng yêu nước thương dân, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác những tác phẩm đáp ứng xuất sắc yêu cầu của cuộc chiến đấu giữ nước buổi ấy. Thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu ghi lại chân thực một thời đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân ta, đồng thời nhiệt liệt biểu dương những anh hùng nghĩa sĩ đã chiến đấu, hi sinh vì Tồ quốc. Ông tố cáo tội ác giặc xâm lăng gây bao thảm hoạ cho nhân dân (Chạy giặc,Văn tế nghĩa sĩ trận trong Lục tỉnh), ông lên án những kẻ sẵn sàng “đổi hình tóc râu” (Ngư Tiều y thuật vấn đáp) để thờ phụng kẻ thù. Ông ngợi ca những sĩ phu yêu nước như Trương Định, Phan Tòng vẫn nặng lòng với hai chữ trung quân nhưng vì đại nghĩa của dân tộc, đã dám chống lại chiếu chỉ nhà vua, phất cao cờ nghĩa, cùng nhân dân chiến đấu đến hơi thở cuối cùng: “ Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tủ chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền; theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại” (văn tế Trương Định). Dưới ngọn cờ đó là đông đảo những người nông dân nghèo khổ, suốt đời “cui cút làm ăn”, bởi “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”, đánh giặc với ý chí: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh… Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen…” Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc). Ngay cả trong thất bại, dân tộc này vẫn không bao giờ chịu khom lưng, uốn gối trước kẻ thù. Kì Nhân Sư, người thầy thuốc giỏi trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp, dẫu không thể làm gì để cứu vãn tình thế đất nước, vẫn biểu thị tấm lòng kiên trung bất khuất bằng cách tự xông đôi mắt mình cho mù chứ không chịu phụng sự quân giặc để lại cho đời bài học nhân sinh cao cả: “Dù đui mà giữ đạo nhà – Còn hơn có mặt ông cha không thờ”.

3. Nghệ thuật thơ văn

Về nghệ thuật, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu có nhiều đóng góp quan trọng, nhất là văn chương trữ tình đạo đức. Vẻ đẹp của thơ văn ông không phát lộ rực rỡ ở bề ngoài mà tiềm ẩn trong tầng sâu của cảm xúc, suy ngẫm. Bút pháp trữ tình xuất phát từ cõi tâm trong sáng, nhiệt thành, đầy tình yêu thương con người của nhà thơ, bao giờ cũng nồng đậm hơi thở cuộc sống, tự nó đã tạo nên sức rung động mãnh liệt sâu xa. Đặc biệt, thơ văn Nguyễn Đình Chiểu còn rất đậm đà sắc thái Nam Bộ. Mỗi người dân Nam Bộ đều có thể bắt gặp mình ở các nhân vật của ông, từ lời ăn tiếng nói mộc mạc, bình dị đến tâm hồn nồng nhiệt, chất phác, cách cư xử khoáng đạt, hồn nhiên… Lối thơ thiên về kể trong các truyện của ông cũng mang màu sắc diễn xướng rất phổ biến trong văn học dân gian Nam Bộ.

Đó là những yếu tố cơ bản tạo nên giá trị thẩm mĩ đặc sắc của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Truyện Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc,… xứng đáng là những tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam cuối thời trung đại.

Đã hơn một thế kỉ trôi qua, tiếng thơ Đồ Chiểu vẫn ngân vang giữa cuộc đời. Tên tuổi nhà thơ mù xứ Đồng Nai vẫn rực sáng bầu trời văn nghệ dân tộc bởi nhân cách cao đẹp và những cống hiến lớn lao của ông cho văn học nước nhà.

Dưới đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sgk Ngữ văn 11 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:


HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

1. Câu 1 trang 59 Ngữ văn 11 tập 1

Nêu những nét chính về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu. Anh (chị) cảm nhận sâu sắc điều gì qua cuộc đời nhà thơ?

Trả lời:

Những nét chính về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu:

– Xuất thân trong gia đình nhà nho, cha ông làm quan trong triều, mẹ ông là vợ thứ.

– Ông đỗ tú tài năm 1843.

– Trên đường về quê chịu tang mẹ thì ông bị đau mắt nặng rồi bị mù. Ông về Gia Định mở trường dạy học, bốc thuốc chữa bệnh.

– Khi giặc Pháp đánh vào Gia Định, ông đã chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược bằng cả mưu lược lẫn ngòi bút văn chương.


2. Câu 2 trang 59 Ngữ văn 11 tập 1

Tìm hiểu giá trị thơ văn Nguyễn Đình Chiểu:

– Dựa vào những đoạn trích đã học về Truyện Lục Vân Tiên (ở lớp 9 và lớp 11), hãy cho biết lí tưởng đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu được xây dựng chủ yếu trên cơ sở tình cảm nào.

– Nêu nội dung trữ tình yêu nước trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu và đánh giá tác động tích cực của những sáng tác đó đối với cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp đương thời.

– Theo anh (chị), sắc thái Nam Bộ độc đáo của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu biểu hiện ở những điểm nào?

Trả lời:

– Lí tưởng đạo đức của Nguyễn Đình Chiểu được xây dựng chủ yếu trên cơ sở lòng nhân nghĩa, trung nghĩa.

– Nội dung trữ tình yêu nước trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu: tấm lòng yêu nước, trung thành với đất nước, thương yêu nhân dân.

– Thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu ghi lại chân thực một thời đau thương của đất nước. Ông tố cáo tội ác của giặc, ngợi ca những sĩ phu yêu nước…Những nội dung ấy mang tính chiến đấu, cổ vũ cho cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc.

– Sắc thái Nam Bộ trong thơ ông thể hiện ở việc sử dụng từ ngữ địa phương, từ ngữ gần gũi với lời ăn tiếng nói, lối thơ thiên về kể.


3. Câu 3* trang 59 Ngữ văn 11 tập 1

Với những kiến thức đã học về Nguyễn Trãi và Nguyễn Đình Chiểu, anh (chị) cảm nhận được điều gì gần gũi về tư tưởng nhân nghĩa giữa hai nhà thơ này? Hãy trình bày ý kiến của mình.

Trả lời:

Tư tưởng nhân nghĩa giữa Nguyễn Trãi và Nguyễn Đình Chiểu đều xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân, lấy dân làm gốc, lấy điều nhân làm gốc.


LUYỆN TẬP

Câu hỏi trang 59 Ngữ văn 11 tập 1

Căn cứ vào những kiến thức đã học về Nguyễn Đình Chiểu và các tác phẩm của ông anh (chị) suy nghĩ như thế nào về nhận định của nhà thơ Xuân Diệu: “Cái ưu ái đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hồn Đồ Chiểu”?

Trả lời:

Nhận định của Xuân Diệu: “Cái ưu ái đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hồn Đồ Chiểu”

– Đây là nhận định đúng đắn, xác đáng.

– Trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu ta thấy hiện lên cuộc sống của nhân dân lao động với những tâm tư tình cảm, số phận.

– Nguyễn Đình Chiểu luôn dành cho người lao động sự tôn trọng, yêu thương, bênh vực dù là trong văn chương hay đời thực.


PHẦN HAI: TÁC PHẨM

TIỂU DẪN

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định, để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đơn quận Pháp ở Cần Giuộc đêm 16 – 12 – 1861. Nghĩa quân giết được tên quan hai Pháp và một số lính thuộc địa, làm chủ đồn hai ngày rồi bị phán công và thất bại. Nghĩa quân hi sinh khoáng 20 người. Trong bối cảnh cuộc chiến đấu không cân sức những ngày đầu chống Pháp, khi toàn dân tộc đang quyết một lòng thà chết vinh còn hơn sống nhục, sự hi sinh vì đại nghĩa này quả có sức cổ vũ và khích lệ to lớn. Bởi thế, bài văn ngay lập tức được truyền tụng khắp nơi trong nước, làm xúc động lòng người. Có thể nói lần đầu tiên trong văn học dân tộc, người nông dân nghĩa sĩ chống ngoại xâm đã được dựng một bức tượng đài nghệ thuật bất tử.

Văn tế là một loại văn thường gắn với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng tiếc thương đối với người đã mất. Văn tế thường có hai nội dung cơ bản: kể lại cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã khuất và bày tỏ nỗi đau thương của người sống trong giờ phút vĩnh biệt. Âm hưởng chung của bài văn tế là bi thương, nhưng sắc thái biểu cảm ở mỗi bài có thể khác nhau. Có bài chỉ thuần tuý là một tiếng khóc (Văn tế Trương Quỳnh Như của Phạm Thái) nhưng cũng có bài mang tính sử thi bi tráng (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế Phan Chân Trinh của Phan Bội Châu). Đặc biệt, có khi văn tế còn được viết trong những hoàn cảnh khác, nhằm mục đích khác (ví dụ Tú Xương làm Văn tế sống vợ với giọng hài hước, dí dỏm, hay các nhà văn cách mạng sau này có thể làm văn tế bọn thực dân, đế quốc để đả kịch, châm biếm). Văn tế có thể được viết theo nhiều thể: văn xuôi, thơ lục bát, song thất lục bát, phú,… (Bài văn tế này viết theo thể phú Đường luật có vần, có đối). Giọng điệu văn tế nói chung là lâm li, thống thiết, sử dụng nhiều thán từ và những từ ngữ, hình ảnh có giá trị biểu cảm mạnh. Bố cục của bài văn tế thường có bốn đoạn: đoạn mở đầu (lung khởi) luận chung về lẽ sống chết, thường khởi xướng bằng những từ Thương ôi!, Hỡi ôi!; đoạn thứ hai (thích thực) kể công đức, phẩm hạnh, cuộc đời của người đã khuất, thường bắt đầu bằng cụm từ Nhớ linh xưa; đoạn thứ ba (ai vãn) nói lên niềm thương tiếc đối vời người đã chết; đoạn thứ tư (kết) bày tỏ lòng tiếc thương và lời cầu nguyện của người đứng tế.


VĂN BẢN

Hỡi ôi!

Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.

Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.

Nhớ linh xưa:

Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó.

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.

Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Khá thương thay!

Vốn chẳng phải quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.

Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.

Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.

Hoả mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đóng súng nổ.

Ôi!

Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ.

Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào gợi gườm hùm treo mộ.

Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy đậm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.

Chẳng phải án cướp án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm; vốn không giữ thành giữ luỹ bỏ đời, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.

Nhưng nghĩ rằng:

Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.

Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn luỹ tan tành, xiêu mưa ngã gió.

Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.

Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.

Ôi thôi thôi!

Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.

Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay? Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dạt dờ trước ngõ.

Ôi!

Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ.

Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.

Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia, sống thờ vua thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.

Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.

Hỡi ôi thương thay!
Có linh xin hưởng.

(Theo Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, NXB Văn học Giải phóng, TP. Hồ Chí Minh, 1976)


HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

Nội dung chính:

Văn tế nghĩa sĩ Cần giuộc của NguyễN Đình Chiểu là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng vĩ đại của dân tộc, là bức tượng đài bất tử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần giuộc đã dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc.


1. Câu 1 trang 65 Ngữ văn 11 tập 1

Đọc Tiểu dẫn, nắm những nét cơ bản về thể văn tế. Tìm bố cục của bài văn tế này.

Trả lời:

Thể loại và bố cục:

– Thể văn tế: gắn với phong tục tang lễ, đọc khi cúng tế người chết, âm điệu thường bi thương, lâm li, thống thiết.

– Bố cục gồm 4 phần:

+ Phần 1 (Lung khởi – Câu 1,2): Khái quát bối cảnh thời đại và ý nghĩa cái chết của nghĩa quân.

+ Phần 2 (Thích thực – câu 3 đến câu 15): Hồi tưởng về cuộc đời của người nghĩa sĩ.

+ Phần 3 (Ai vãn – câu 16 đến câu 28): Tiếc thương và cảm phục người đã mất.

+ Phần 4 (Kết – còn lại): Ca ngợi sự bất tử của các nghĩa sĩ.


2. Câu 2 trang 65 Ngữ văn 11 tập 1

Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ được tái hiện trong bài văn tế như thế nào? (Chú ý phân tích qua cả quá trình: hình ảnh họ trong cuộc sống bình thường, những biến chuyển khi quân giặc xâm phạm tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo vẻ đẹp hào hùng của đội quân áo vải trong trận nghĩa đánh Tây.)

Theo anh (chị), đoạn văn miêu tả này đạt giá trị nghệ thuật cao ở những điểm nào (về nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật ngôn ngữ, bút pháp trữ tình,…) ?

Trả lời:

Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ:

– Trước trận công đồn, họ là những người nông dân cần cù, lam lũ trong đời thường:

+ Cuộc đời lam lũ, tủi cực, lam lũ: cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó,…

+ Hoàn toàn xa lạ với việc binh đao: chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung…

– Những biến chuyển của họ khi quân giặc xâm lược:

+ Về tình cảm: sốt ruột trước động thái của triều đình, căm thù giặc sục sôi.

+ Về nhận thức: có ý thức trách nhiệm cao với sự nghiệp cứu nước.

+ Hành động: tự nguyện; ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc.

– Vẻ đẹp hào hùng của đội quân áo vải trong trận đánh Tây:

+ Bức tượng đài tập thể nghĩa sĩ vừa mộc mạc, giản dị vừa đậm chất anh hùng với tấm lòng mến nghĩa, tư thế hiên ngang, coi thường mọi khó khăn, thiếu thốn.

+ Tinh thần anh dũng quả cảm, khí thế tiến công như vũ bão, hành động quyết liệt.

– Nghệ thuật đặc sắc trong xây dựng hình tượng nghĩa quân Cần Giuộc:

+ Bút pháp hiện thực đặc sắc, khai thác những chi tiết chân thực, đậm đặc chất sống, mang tính khái quát và đặc trưng cao ở người nghĩa sĩ nông dân.

+ Hệ thống từ ngữ sử dụng nhiều động từ mạnh, khẩu ngữ nông thôn, từ ngữ mang đặc trưng Nam Bộ, phép đối, từ ngữ bình dị, nhiều biện pháp tu từ được sử dụng rất thành công…

+ Ngòi bút hiện thực kết hợp nhuần nhuyễn với chất trữ tình sâu lắng.


3. Câu 3 trang 65 Ngữ văn 11 tập 1

Tiếng khóc bi tráng PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả xuất phát từ nhiều nguồn cảm xúc. Theo anh (chị), đó là những cảm xúc gì? Vì sao tiếng khóc đau thương này lại không hề bi lụy..

Trả lời:

Tiếng khóc bi tráng xuất phát từ nhiều nguồn cảm xúc:

– Nỗi tiếc hận của người hi sinh khi sự nghiệp còn dang dở (câu 16,24).

– Nỗi xót xa của gia đình mất người thân, nhất là nỗi đau của mẹ già, vợ trẻ (câu 25).

– Nỗi căm hờn đối với những kẻ gây ra nghịch cảnh éo le (câu 21).

– Nỗi nghẹn ngào, uất ức của cả dân tộc (câu 27).

– Nỗi đau xót bao trùm thiên nhiên, sông núi.

– Niềm cảm phục, tự hào về những người nông dân dám đứng lên hi sinh thân mình bảo vệ quê hương, gia đình (câu 19,20).

– Biểu dương công trạng của người nông dân – nghĩa sĩ (câu 26,28).


4. Câu 4 trang 65 Ngữ văn 11 tập 1

Sức gợi cảm mạnh mẽ của bài văn tế chủ yếu là do những yếu tố nào? Hãy phân tích một số câu tiêu biểu.

Trả lời:

Sức gợi mạnh mẽ của bài văn tế chủ yếu do những yếu tố sau:

– Sự kết hợp giữa yếu tổ biểu cảm với miêu tả, tự sự

– Cảm xúc chân thành, sâu nặng, mãnh liệt.

– Giọng văn bi tráng, thống thiết.

– Hình ảnh sống động.

– Ngôn ngữ giản dị nhưng được chắt lọc tinh tế, có sức biểu cảm và thẩm mĩ lớn lao.

– Giọng điệu phong phú, thay đổi theo cảm xúc.


LUYỆN TẬP

1. Câu 1 trang 65 Ngữ văn 11 tập 1

Đọc diễn cảm bài văn tế.


2. Câu 2 trang 65 Ngữ văn 11 tập 1

Nói về quan niệm sống của ông cha ta thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, Giáo sư Trần Văn Giàu đã viết: “Cái sống được cha ông ta quan niệm là không thể tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay vinh là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây: đánh Tây là vinh, theo Tây là nhục”. Anh (chị) hãy viết một đoạn văn phân tích những câu trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thể hiện đầy đủ, sâu sắc triết lí nhân sinh đó.

Trả lời:

Để làm sáng tỏ ý kiến của Giáo sư Trần Văn Giàu: “Cái sống được cha ông ta quan niệm là không thể tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay vinh là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây: đánh Tây là vinh, theo Tây là nhục”, có thể dẫn ra và phân tích các câu văn như:

– Sống làm chi theo quán tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chỉ ỏ lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.

– Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.

– Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng dinh miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

⇒ Người nông dân không cam chịu cảnh nước mất nhà tan, cam chịu cảnh nô lê, cam chịu “sống nhục”. Họ chọn đứng lên dành lại tự do cho dân tộc, cho chính bản thân mình dù biết là sẽ đi đến cái chết. Chết vì lý tưởng dân tộc, vì theo lời tổ tiên bảo vệ quê hương là cái chết vinh quang. Ngược lại, sống mà luồn cúi dưới ách kẻ thù, bán nước cho giặc thì sống không bằng chết.


CÁC BÀI VĂN HAY


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sgk Ngữ văn 11 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các em làm bài Ngữ văn thật tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com