Soạn bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác sgk Ngữ văn 8 tập 1

Hướng dẫn Soạn Bài 15 sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập một. Nội dung bài Soạn bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác sgk Ngữ văn 8 tập 1 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, cảm thụ, phân tích, thuyết minh,… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 8 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn 8.


VĂN BẢN

Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác

Vẫn là hào kiệt(1), vẫn phong lưu(2),
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Đã khách không nhà trong bốn biển(3),
Lại người có tội giữa năm châu(4).
Bủa(5) tay ôm chặt bồ kinh tế(6),
Mở miệng cười tan cuộc oán thù
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

(Phan Bội Châu(*), trong Thơ văn yêu nước và cách mạng
đầu thế kỉ XX, NXB Văn học, Hà Nội, 1976)

Chú thích:

(*) Phan Bội Châu (1867 -1940), tên thuở nhỏ là Phan Văn San, tên hiệu chính là Sào Nam, người làng Đan Nhiệm (có tài liệu ghi là Đan Nhiễm), nay là xã Nam Hòa, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm 33 tuổi, Phan Bội Châu đỗ Giải nguyên (đỗ đầu kì thi Hương). Ông là một nhà yêu nước, nhà cách mạng lớn nhất của dân tộc ta trong vòng hai mươi lăm năm đầu thế kỉ XX, từng xuất dương sang Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan để mưu đồ sự nghiệp cứu nước. Phan Bội Châu cũng là một nhà văn, nhà thơ lớn, có sự nghiệp sáng tác khá đồ sộ. Tác phẩm của ông bao gồm rất nhiều thể loại, tất cả đều thể hiện lòng yêu nước, thương dân tha thiết, khát vọng độc lập, tự do và ý chí chiến đấu bền bỉ, kiên cường: Hải ngoại huyết thư (thơ chữ Hán), Sào Nam thi tập (thơ chữ Hán và chữ Nôm), Trùng Quang tâm sử (tiểu thuyết chữ Hán), văn tế Phan Châu Trinh (chữ Nôm), Phan Bội Châu niên biểu (hồi kí chữ Hán),…

Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là một bài thơ Nôm nằm trong tác phẩm Ngục trung thư (Thư viết trong ngục) viết bằng chữ Hán, sáng tác vào đầu năm 1914, khi Phan Bội Châu bị bọn quân phiệt tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) bắt giam. Ngục trung thư có thể xem là tập tự truyện đầu tiên của Phan Bội Châu, có ý nghĩa như một bức thư tuyệt mệnh. Phan Bội Châu làm bài thơ này bộc lộ cảm xúc của mình trong những ngày đầu mới vào ngục. Nhan đề bài thơ là do những NBS sách về sau đặt.

(1) Hào kiệt: người có tài năng, chí khí hơn hẳn người bình thường.

(2) Phong lưu: có dáng vẻ lịch sự, trang nhã; còn có nghĩa là mức sống khá giả. Ở đây chỉ vẻ ung dung, đường hoàng.

(3) Ý nghĩa muốn nói về cuộc đời hoạt động cách mạng xa quê hương đất nước của Phan Bội Châu.

(4) Vì hoạt động cách mạng, Phan Bội Châu đã bị trục xuất khỏi Nhật Bản, đang sống không hợp pháp ở Trung Quốc, lại đã bị thực dân Pháp kết án tử hình vắng mặt cho nên dường như đi đến đâu ông cũng bị truy đuổi như một tội phạm.

(5) Bủa tay: mở rộng vòng tay để ôm lấy (có bản chép là dang tay, nghĩa cũng gần như vậy).

(6) Kinh tế: nói tắt của kinh bang tế thế, có nghĩa là trị nước cứu đời (không phải là kinh tế theo nghĩa hiện nay). Cả câu ý nói con người này vẫn ôm ấp hoài bão trị nước cứu đời.

Dưới đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác sgk Ngữ văn 8 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:


ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Bố cục: 4 phần

– Hai câu đề: Khẳng định tinh thần bất khuất phi thường.

– Hai câu thực: Chiêm nghiệm về cuộc đời sóng gió.

– Hai câu luận: Hình tượng bậc anh tài có tài năng, chí khí.

– Hai câu kết: Sự bền chí, vững lòng của anh hùng.

Nội dung chính: Phong thái ung dung, đường hoàng và khí phách kiên cường, bất khuất vượt lên trên cảnh tù ngục khốc liệt của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu.


1. Câu 1 trang 147 sgk Ngữ văn 8 tập 1

Phân tích cặp câu 1 – 2, tìm hiểu khí phách và phong thái của nhà chí sĩ khi rơi vào vòng tù ngục (chú ý các từ hào kiệt, phong lưu và quan niệm chạy mỏi chân thì hãy ở tù).

Trả lời:

Theo bố cục một bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú, cặp 1, 2 được gọi là phần đề (thừa đề và phá đề). Phần này thường có nội dung nhằm giới thiệu vấn đề cần nói tới. Ở đây, vấn đề cần nói tới của nhà thơ là hoàn cảnh mình, mình bị bắt giam.

– Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu

+ Tự xưng mình là hào kiệt: ý thức mạnh mẽ về tài năng, chí khí của bản thân

+ Ý thức về cốt cách, phong thái ung dung, hào hoa, phong lưu

+ Điệp từ “vẫn” khẳng định chắc chắn bản lĩnh của bậc anh hào.

– Chạy mỏi chân thì hãy ở tù

+ Thản nhiên, lạc quan, hiên ngang dù rơi vào cảnh ngục tù

+ “mỏi chân” nên ” ở tù”: sự chủ động nghỉ ngơi như lẽ tất yếu

+ Hiên ngang khinh thường cảnh tù ngục

⟹ Khí phách của người anh hùng trước hiểm nguy vẫn kiên cường, lạc quan.


2. Câu 2 trang 147 sgk Ngữ văn 8 tập 1

Đọc lại cặp câu 3 – 4, em thấy giọng điệu có gì thay đổi so với hai câu thơ trên? Vì sao? Lời tâm sự ở đây có ý nghĩa như thế nào?

Trả lời:

– Giọng thơ có sự thay đổi: từ giọng hào hùng, ngang tàng chuyển sang giọng trầm lắng, suy tư lúc lâm nguy.

– Nhìn thẳng vào hoàn cảnh khó khăn của bản thân (khách không nhà, người có tội) để kiên tâm, vững chí hơn trên con đường còn gian nan.

– Lời tâm sự chân tình có ý nghĩa: Thể hiện cuộc đời làm cách mệnh gian nan, khó khăn, phải bôn ba xứ người, xa quê, xa người thân.


3. Câu 3 trang 147 sgk Ngữ văn 8 tập 1

Em hiểu thế nào về ý nghĩa của cặp câu 5 – 6? Lối nói khoa trương ở đây có tác dụng gì trong việc biểu hiện hình ảnh người anh hùng, hào kiệt này?

Trả lời:

– Ý nghĩa 2 câu thơ 5- 6:

+ Khẳng định sự quyết tâm bền chí trước sự nghiệp cứu nước, cứu đời lớn lao.

+ Tiếng cười của bậc anh hùng vẫn ngạo nghễ, đập tan những oán thù.

– Lối nói quá nhằm:

+ Nâng lên sức vóc người anh hùng lên tới mức siêu nhiên, phi thường.

+ Tạo giọng điệu hào hùng chung cho toàn bài thơ.


4. Câu 4 trang 147 sgk Ngữ văn 8 tập 1

Hai câu thơ cuối là kết tinh tư tưởng của toàn bài thơ. Em cảm nhận được điều gì từ hai câu thơ ấy?

Trả lời:

Hai câu thơ cuối:

+ Kết tinh cao độ ý chí và cảm xúc lãng mạn hào hùng của tác giả.

+ Điệp từ “còn” nhấn vào sự tiếp diễn, tiếp tục chiến đấu vì đất nước.

+ Lời thách thức “nguy hiểm sợ gì đâu”: giữ vững ý chí, lý tưởng, kiên định với sự nghiệp cứu nước, vươn lên, bất chấp những hiểm nguy.


LUYỆN TẬP

Câu hỏi trang 148 sgk Ngữ văn 8 tập 1

Ôn lại những kiến thức đã học về thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, em hãy nhận dạng thể thơ của bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác về các phương diện số câu, số chữ, cách gieo vần.

Trả lời:

– Thể thơ thất ngôn bát cú bắt nguồn từ thơ Đường.

+ Cấu trúc bài thất ngôn bát cú gồm 8 câu, 7 chữ tạo thành đề- thực- luận– kết

+ Luật lệ bằng trắc:

Các tiếng nhất(1)- tam (3)- ngũ (5) bất luận

Các tiếng nhị (2)- tứ (4) lục (6) phân minh

+ Gieo vần: các tiếng cuối câu 1, 2, 4, 6, 8 hiệp vần với nhau

– Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật: 8 câu, 7 chữ, gieo vần ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8.


CÁC BÀI VĂN HAY

1. Phân tích bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác

Bài tham khảo 1:

Phan Bội Châu nhà chí sĩ cách mạng Việt Nam, cả cuộc đời ông dùng để hoạt động cách mạng nhằm tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc. Bởi vậy các tác phẩm của ông viết ra đều thể hiện lòng yêu nước, thương dân tha thiết, khát vọng độc lập, tự do và ý chí kiên cường, bền bỉ. Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là một trong những tác phẩm như vậy.

Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác là một bài thơ Nôm được trích trong tác phẩm Ngục trung thư sáng tác năm 1914. Đây là thời gian Phan Bội Châu bị quân phiệt Quảng Đông, Trung Quốc bắt giam. Bài thơ bộc lộ cảm xúc của ông những ngày đầu mới vào ngục.

Mở đầu bài thơ không phải tư thế của người tù khốn khổ, mà là tư thế đường hoàng, hiên ngang:

Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

Cách nói “vẫn là” được lặp lại hai lần ở ngay câu đầu mang ý nghĩa khẳng định, kết hợp với hai từ Hán Việt hào kiệt, phong lưu cho thấy tư thế hiên ngang, bất khuất lại có chút tài hoa của người tù trước hoàn cảnh bị đẩy vào ngục của mình. Câu thơ thứ hai tác giả đưa ra cách lí giải: do ông đã phiêu bạt nhiều, đã mỏi chân, nên vào tù cũng chỉ là nghỉ ngơi tạm thời, để chuẩn bị cho những lần di chuyển sau nhanh hơn, mạnh mẽ hơn. Giọng điệu vui đùa, khẩu khí PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả thật đáng ngưỡng mộ. Cách nhìn nhận của ông về hoàn cảnh của bản thân hết sức lạc quan, tác giả đã biến chuyện tù đầy trở thành một điều hết sức bình thường.

Hai câu ba bốn có sự chuyển giọng, từ giọng vui đùa hóm hỉnh chuyển sang giọng điệu thống thiết, trầm lặng. Vừa là khách không nhà, vừa là kẻ có tội. Đến đây những lời ông nói đã được nhìn nhận sát với thực tế hơn. Từ khi Phan Bội Châu bắt đầu con đường cứu nước của mình ông không có một mái nhà, một gia đình, đi đâu cũng gặp kẻ thù, cũng bị bắt bớ, săn đuổi. Trong hai câu thơ này, giọng điệu pha chút trầm lặng, đầy màu sắc cảm khái nhưng không phải là giọng than thân. Nhà thơ có buồn cho thân phận mình nhưng cái mà ông quan tâm hơn chính là đau xót cho số phận dân tộc. Tiếp tục mạch thơ, hai câu tiếp thể hiện ý chí kiên cường, mạnh mẽ của người tù. Dù trong quá trình hoạt động gặp nhiều khó khăn, không nhà không cửa nhưng ông vẫn quyết theo đuổi sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Câu này có quan hệ đối lập với câu thơ trên, cho thấy khí phách và ý chí của nhà cách mạng không hề nao núng.

Hai câu kết đã gói lại toàn bộ tư tưởng của bài thơ, thể hiện tinh thần lạc quan, thái độ cứng cỏi của Phan Bội Châu trong cảnh tù đày, bị kết tội:

Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

Đây là lời tự nhủ thầm, tự an ủi, động viên mình. Chỉ cần còn thân xác nhất định sẽ đem nó phục vụ cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Ông sẵn sàng hi sinh tính mệnh vì tổ quốc. Cách lặp từ còn mang sắc thái khẳng định, lời thơ dõng dạc, thể hiện cái “chí” của bậc anh hùng.

Tác phẩm đã cho thấy ý chí kiên cường sắt đá, đầy lạc quan của người anh hùng Phan Bội Châu trong cảnh tù đầy. Hơn nữa, qua tác phẩm còn cho thấy tình yêu quê hương đất nước sâu nặng của ông, sẵn sàng hi sính tính mạng vì tổ quốc.

Bài tham khảo 2:

Cuối thế kỷ XIX, khi các phong trào đấu tranh chống Pháp lần lượt bị thất bại, đất nước chìm ngập trong đau thương. Bước sang đầu thế kỷ XX, hưởng ứng luồng gió mới từ phương Tây thổi tới, những con người yêu nước, quyết chí dành tự do cho dân tộc lại náo nức bước vào một cuộc đấu tranh mới, theo khuynh hướng dân chủ tư sản.

Phan Bội Châu xuất thân nho học song lại là người sớm có tinh thần tiên tiến, bắt nhịp với thời đại mới. Cái chí khí “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (giàu sang không thể làm cho mê đắm, nghèo khó không thể làm cho thay lòng đổi dạ, uy vũ không thể làm cho khuất phục) của một nho gia đã biến thành bản lĩnh vững vàng, thành cốt cách anh hùng trước cơn tai biến nguy nan của một chí sĩ cách mạng.

Ngày 19-1-1914, Phan Bội Châu bị bắt giam vào ngục Quảng Đông. Trước đó, thực dân Pháp đã kết án tử hình vắng mặt đối với ông. Bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông nằm trong Ngục trung thư – một huyết tâm thư tuyệt mệnh. Ngay từ đêm đầu tiên vào ngục Phan đã làm hai bài thơ Nôm (Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông là một trong hai bài ấy): “Làm xong hai bài thơ tôi ngâm nga lớn tiếng rồi cả cười, vang động cả bốn vành, hầu như không biết thân mình đang bị nhốt trong ngục”. Xem ra, tù ngục cũng chẳng mảy may khiến bậc trượng phu nao núng.

Đây là bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu vào bài thể hiện ngay khẩu khí của bậc anh hùng:

“Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”.

Nhân vật trữ tình hiện ra với một phong thái đường hoàng, tự tin đến ngang tàng, ngạo mạn. Giọng đùa vui, tự trào làm tan biến đi cảm giác của một người tù, chỉ thấy một tư thế cao ngạo, xem thường hiểm nguy, cổ nhân nói: Trí hơn vạn người gọi là “anh”, trí hơn nghìn người gọi là “tuấn”, trí hơn trăm người gọi là “hào”, trí hơn mười người gọi là “kiệt”. Kẻ tài trí hơn người, phong thái ung dung, đường hoàng (phong lưu) đang ngân nga tỏ chí. Hai từ vẫn trong câu thơ đầu mang đậm tính khẩu ngữ. Một sự việc nghiêm trọng (tù) được nói đến bằng một thái độ cười, cợt, xem thường. Bị giam hãm trong tù ngục (lại là tử tù!) mà cứ như khách tài tử tạm dừng chân trên chặng đường dài dặc. Hoàn cảnh dù có đổi thay, tai biến có thể đến bất cứ lúc hào nhưng chí khí thì chẳng khi nào dời đổi.

Hai câu tiếp, giọng thơ chợt chuyển:

Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu

Tác giả tự nghiệm về thân thế của mình. Một cuộc đời bôn ba đầy sóng gió. Phan Bội Châu từng phiêu bạt khắp nơi (khi Trung Quốc, khi thì Nhật Bàn, Thái Lan). Trên hành trình lưu lạc ấy ông đã phải trải qua biết bao cay đắng, cực khổ.

Chỉ vì hết lòng muốn tìm đường cứu nước, chỉ vì yêu đất nước, dân tộc mình mà người chí sĩ bị xem như một tội nhân, bị truy nã khắp nơi. Phiêu bạt, lênh đênh, chẳng được yên ổn bao giờ, con người ấy cất tiếng than cho mình cũng là đau cho nỗi đau chung của một đất nước đang mất chủ quyền. Tiếng thở dài ấy là của bậc anh hùng. Cái buồn ấy là cái buồn của một người tù yêu nước, của một nhân cách phi thường. Một phút ngẫm ngợi về mình để rồi lại sang sảng ca lên âm giai lãng mạn:

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Kinh tế – kinh bang tế thế, người chí sĩ chẳng lúc nào thôi ôm ấp hoài bão trị nước cứu đời. Đây là con đường Phan đã chọn, nguyện dấn thân, vẫn là cái khẩu khí hơn người, tiếng “cười” của một người tù sao mà khoáng đạt đến thế. Đến độ ta chỉ còn thấy âm hưởng hào hùng bao trùm tất cả, lấn át tất cả như cánh buồm thênh thênh lướt sóng đại dương. Lối nói khoa trương đã được sử dụng để biểu đạt cái chí lớn lao, khát vọng xoay chuyển càn khôn. Như trong bài thơ Chơi xuân, Phan viết:

Phùng xuân hội, may ra, ừ cũng dễ,
Nắm địa cầu vừa một tí con con.
Đạp toang hai cánh càn khôn,
Đem xuân vẽ lại trong non nước nhà…

Hai liên giữa câu 3 – 4 và câu 5-6 của bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông đã tuân thủ khuôn mẫu của một bài thơ thất ngôn bát cú luật Đường trong đối ý, đối lời. Sự đăng đối, hài hòa ở những câu thơ này góp phần tạo ra ấn tượng về cái vững vàng. Các cặp từ đối: bốn biển – năm châu, bủa tay – mở miệng, bồ kinh tế – cuộc oán thù khiến cho tầm vóc của người chi sĩ trở nên phi thường phù hợp với âm hưởng chủ đạo của bài thơ.

Bản lĩnh và tư thế khác người của người anh hùng yêu nước được khẳng định dứt khoát trong hai câu thơ kết bài:

Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!

Con người ấy còn sống là còn tranh đấu đến cùng cho lý tưởng chính nghĩa của mình. Hai chữ còn ngắt ra, điệp lại càng tăng thêm sắc thái mạnh mẽ, dứt khoát cho câu thơ. Ý chí thép sẽ chiến thắng hiểm nguy.

Cả bài thơ toát lên một tinh thần bất khuất, một tư thế vững vàng của bậc trượng phu trong cơn sóng gió. Truyền thống yêu nước, chí khí anh dũng của dân tộc đang tiếp tục mạch chảy bất tận trong tâm huyết chí sĩ Phan Bội Châu. Hình ảnh người anh hùng đã tạc vào lịch sử như một minh chứng cho tinh thần yêu nước, xả thân vì lý tưởng chính nghĩa.

Bài tham khảo 3:

Bài thơ Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông nói về ý chí kiên cường, với phong thái dung dung và hào hùng vượt lên cảnh ngục tù khốc liệt để an ủi mình giữ vững lí tưởng, niềm tin và khát vọng cứu nước cứu dân của cụ Phan Bội Châu trong những này bị chính quyền Trung Quốc bắt giữ.

Hai câu 1, 2 là hai câu đề: Giới thiệu vấn đề cần nói tới.

“Vẫn là hào kiệt vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”

Cách vào đề rất khéo. Ở đây nhà thơ muốn nói tới hoàn cảnh mình bị bắt giam. Ý của hai câu có thể diễn đạt lại: Vào tù mình vẫn giữ được tài trí và cách sống của mình: là người có tài cao, chí lớn khác thường (hào kiệt), là người luôn giữ dáng vẻ lịch sự, trang nhã (phong lưu). Mình ở tù không phải do bị bắt mà vì chạy mỏi chân (tức hoạt động cách mạng đã nhiều), tạm thời nghỉ ở đây.

Tác giả có nói đến việc bị bắt vào nhà tù nhưng không nhấn mạnh khía cảnh rủi ro, đau khổ hoặc âu lo, khiếp sợ. Ngược lại, nhà thơ coi việc đó chẳng có gì khủng khiếp, đáng buồn, đó chỉ là những giây phút nghỉ ngơi sau những ngày hoạt động sôi nổi. Mặc dầu trong hồi tưởng cụ viết: “Thật từ lúc cha sanh mẹ để đến nay, chưa lúc nào nếm mùi thất bại chua xót như bây giờ”.

Giọng điệu thản nhiên pha chút đùa vui ở hai câu đầu đã được thể hiện ngay từ cách dùng điệp từ “vẫn” đi liền với hai tính từ thể hiện phẩm chất trước sau như một của nhà cách mạng (hào kiệt, phong lưu). Nó trở thành cái cười tủm tỉm khi nhà thơ hạ ở cuối câu thứ hai cụm từ “thì hãy ở tù”, biến sự việc bị động, mất tự do thành việc chủ động do mình muốn thế.

Hai câu 3 -4 là hai câu luận: Trình bày sự việc do phần đề đặt ra.

“Đã khách không nhà trong bốn biển
Lại người có tội giữa năm châu”

Hai câu thơ này khác với giọng điệu cười cợt, vui đùa như hai câu đề. Ở đây như lời tâm sự không phải để than thân mà để nói lên nỗi đau đớn lớn lao trong tâm hồn người anh hùng. Tả người tù mà nói “khách không nhà”, “người có tội” với “năm châu” thì thật đúng là cái cười nhạo báng đối với nhà tù của bọn quân phiệt tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc).

Chữ “đã”, chữ “lại” mở đầu hai câu thực càng nhấn mạnh thêm tình cảnh tù đày của người chiến sí cách mạng. Song gắn “khách không nhà” với “năm châu”, nhà thơ như muốn vẽ chân dung một người tù một phong cách phóng kháng hơn. Nghệ thuật đối (trong hai câu 3, 4 là hai câu luận) không làm cho ý thơ đối chọi. Ngược lại, sự đối lập ấy lại càng tôn hơn lên chân dung khác thường của người tù: một con người của năm châu, bốn biển, của toàn thế giới.

Hai câu 5, 6 là hai câu luận: Bàn luận, mở rộng vấn đề.

“Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế
Mở miệng cười tan cuộc oán thù”

Ở đây tác giả khẳng định: chí lớn tài cao của người chiến sĩ cách mạng không cảnh tù đày nào có thể đè bẹp. Lối nói khoa trương ở đây thể hiện sự lãng mạn, anh hùng ca, khiến cho con người không còn nhỏ bé nữa mà có tầm vóc lớn lao như thần thánh. Tuy bị bắt nhưng người tù vẫn “dang tay”, “mở miệng” thể hiện thái độ coi thường, coi khinh mọi khó khăn trước mắt.

Hai câu 7 – 8 là hai câu kết: Nâng cao vấn đề hoặc bày tỏ cảm xúc của tác giả.

“Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu”

Trong bài thơ này, hai câu kết khẳng định dứt khoát niềm tin của nhà thơ vào tương lai, thể hiện thái độ coi thường lao tù nguy hiểm.

Hai tiếng “còn” đứng cạnh nhau tạo nên âm điệu khẳng định mạnh mẽ ý chí đấu tranh cho sự nghiệp cứu nước. Em cảm nhận như hai tiếng trống chắc nịch, âm vang kích động lòng người, kết thúc môt bản hùng ca.

Bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của cụ Phan Bội Châu được làm ngay sau khi cụ bị bắt vào nhà ngục Quảng Đông, đã truyền vào tâm hồn chúng ta một niềm tự hào về truyền thống bất khuất, hiên ngang của các nhà cách mạng tiền bối.

Tinh thần của bài thơ thể hiện sự đàng hoàng, hiên ngang, tràn đầy niềm lạc quan cách mạng. Bài thơ có sức truyền cảm lớn, đã khơi dậy lòng yêu nước, ý chí kiên cường, kích thích người đọc – nhất là thanh niên thời ấy- một tấm lòng yêu nước, thương nòi.

Bài tham khảo 4:

Phan Bội Châu (1867-1940) là chiến sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta trong ba thập niên đầu thế kỉ XX. Mùa đông năm 1913, Cụ đang hoạt động cách mạng ta: Trung Quốc, đô đốc Quảng Đông đã bắt giam Cụ vào khám tử hình, âm mưu trao trả nhà cách mạng Việt Nam cho thực dân Pháp.

Tại nhà ngục, ngay đêm đầu tiên, Cụ viết bài thơ Nôm thất ngôn bát cú Đường luật để an ủi, động viên mình. Nhan đề bài thơ là “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác”.

“Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.
Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.
Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thừ.
Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!”.

Bài thơ thể hiện khí phách hiên ngang, bất khuất và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sĩ trong cảnh tù đày nguy hiểm.

1. Câu thơ thứ nhất có hai vế tiểu đối, điệp ngữ “vần” làm cho giọng thơ rắn rỏi, mạnh mẽ, khẳng định một tâm thế “hào kiệt” và “phong lưu”:

“Vẫn là hào kiệt // vẫn phong lưu”.

“Hào kiệt” là người có tài cao, chí lớn khác thường. “Phong lưu ” có nghĩa là dáng vẻ lịch sự, trang nhã; trong văn cảnh còn biểu lộ một phong thái ung dung tư tại và thanh cao. Câu thơ thứ hai, tác giả xem nhà ngục quân thù như một “bến đậu” sau những tháng ngày “chạy mỏi chân”, hoạt động sôi nổi, trải qua muôn vàn gian truân thử thách:

“Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”.

Sau gần 10 năm bôn ba hải ngoại, tìm đường cứu nước (1905-1913), Phan Bội Châu lúc hoạt động ờ Nhật, lúc sang Thái Lan, lúc ở Trung Quốc. Bốn tiếng “thì hãy ở tù” nói lên một thái độ chủ động, bình tĩnh trước tai ương thử thách. Haỉ câu đề biểu thị một cốt cách kẻ sĩ anh hùng.

2. Hai câu trong phấn thực nói lên cảnh ngộ của một chiến sĩ cách mạng trong cảnh nước mất nhà tan, phải sống lưu vong nơi xa lạ (khách không nhà), lại bị tù tội. Đó là bi kịch lịch sử mà Phan Bội Châu và hàng nghìn chiến sĩ cách mạng nền bối đã trải qua. Hai câu 3, 4 đối nhau làm nổi bật tinh thần hi sinh xả thân vì độc lập tự do cho Tổ quốc, một chí lớn tung hoành trên một không gian địa lí mênh mông: “năm châu”, “bốn bể”:

“Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm chân”.

Hai mươi bảy năm sau (1940), trước lúc qua đời, ý thơ trên đã được tác giả nhắc lại như một nỗi niềm đau đớn:

“Những ước anh em đầy bổn bể,
Nào ngờ trăng gió nhốt ba gian”.

(Từ giã bạn bè lần cuối cùng)

3. Hai câu trong phần luận thể hiện niềm tự hào về tài kinh bang tế thế (bồ kinh tế) giúp nước giúp dân, làm nên sự nghiệp lớn. Mối thù đối với lũ thực dân cướp nước và bọn phong kiến tay sai (cuộc oán thù) không bao giờ nguôi, quyết “cười tan”, rửa sạch:

“Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù”.

Các từ ngữ hình ảnh: “bủa tay ôm chặt”, “mở miệng cười tan” nói lên một tư thế hào hùng, một quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển nổi, sẵn sàng xả thân vì một lí tưởng cách mạng cao cả: giúp đời, cứu nước.

Nghệ thuật đối làm cho giọng thơ thêm đĩnh đạc hào hùng. Hình ảnh kì vĩ, các động từ gợi tá, (ôm chặt, cười tan) đã dựng nên bức chân dung tinh thần của một trang anh hùng hào kiệt trong cảnh tù đày nguy hiểm vẫn lạc quan, bất khuất.

4. Hai câu trong phần kết khẳng định một niềm tin mạnh mẽ, biểu lộ một khí phách hiên ngang. Tin mình vẫn tồn tại “vẫn còn”’, sự nghiệp cứu nước, cứu dân là chính nghĩa đang mở rộng ở phía trước. Chữ “còn” điệp lại hai lần, giọng thơ thêm hùng hồn, niềm tin tưởng lạc quan thêm chói sáng:

“Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!”.

Đang bị gông cùm trong nhà ngục tử tù, là nguy hiểm. Nay mai phải bước ra pháp trường, là nguy hiểm… “Bao nhiêu nguy hiểm” máu cháy đầu rơi, thịt nátxương tan, nhưng đối với Phan Bội Châu thì “sợ gì đâu”. Trước vòng nguy hiểm vẫn hiên ngang thách thức, vẫn bất khuất, kiên cường: “Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì dâu”. Phan Bội Châu đã thể hiện một tâm thế “uy vũ bất năng khuất” của nhà cách mạng chân chính.

“Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” đã thể hiện những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ vĩ đại: giàu lòng yêu nước, hiên ngang, bất khuất, lạc quan trong tù đày nguy hiểm. Bài thơ có ngôn từ trang trọng, giọng điệu mạnh mẽ hùng hồn làm hiện lên bức chân dung tinh thần tự họa của “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được 20 triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng” như Nguyễn Ái Quốc đã ca ngợi.

“Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” là viên ngọc quý trong thơ văn Phan Bội Châu, một khúc tráng ca anh hùng của nền thơ văn yêu nước và cách mạng Việt Nam.


2. Em hãy nêu cảm nghĩ của em sau khi đọc bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác

Bài tham khảo 2:

Trước hết đây là bài thơ thể hiện thái độ và khí phách PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả trong hoàn cảnh bị chính quyền Quảng Đông (Trung Quốc) bắt cầm tù: ngồi trong tù, người chiến sĩ cách mạng vẫn hiên ngang, bất khuất và giữ một niềm tin sắt son và sự nghiệp cứu nước.

Vì vậy bài thơ có sức truyền cảm lớn do nhiệt tình yêu nước sôi nổi, mãnh liệt của tác giả, do giọng thơ vui, yêu đời.

Bài thơ viết theo thể Đường luật thất ngôn bát cú tuân theo đúng các qui tắc về bố cục, vần, niêm, luật của thể thơ này.

Bốn câu thơ đầu có thể chia thành hai cặp: 1, 2 và 3, 4. Cặp 1, 2 theo bố cục của thơ Đường luật gọi là phần đề (thừa đề vừa phá đề) có nội dung nhằm giới thiệu vấn đề cần nói tới. Ở đây nhà thơ muốn nói tới hoàn cảnh mình bị bắt giam.

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hãy ở tù.

Ý của hai câu thơ có thể diễn đạt lại: mình ở tù không phải do bị bắt mà vì chạy mỏi chân (từ hoạt động cách mạng đã nhiều), tạm thời nghỉ ờ đây. Vào tù, mình vẫn giữ được tài trí và cách sống của mình: là người có chí lớn khác thường (hào kiệt), là người luôn giữ dáng vẻ lịch sự, trang nhã (phong lưu).

Cách vào đề khéo. Tác giả có nói đến việc bị bắt vào nhà tù nhưng không nhấn mạnh khía cạnh rủi ro, đau khổ hoặc âu lo, khiếp sợ. Ngược lại, bằng giọng điệu thản nhiên pha chút đùa vui ấy được thể hiện ngay từ cách dùng điệp từ “vẫn” đi liền với hai tính từ thể hiện phẩm chất trước sau như nhà cách mạng (hào kiệt, phong lưu). Nó trở thành nụ cười khi nhà thơ hạ câu thứ hai cụm từ “thì hãy ở tù”, biến sự việc bị động, mất tự do thành chủ động do mình muôn thế.

Câu ba, bốn là phần thực, có nhiệm vụ tả cảnh hay trình bày sự việc do phần đề đặt ra.

Đã khách không nhà trong bốn biển,
Lại người có tội giữa năm châu.

Tả người tù mà nói “khách không nhà”, “người có tội” thì thật đúng. Chữ “đã”, chữ “lại” mở đầu hai câu thực càng nhấn mạnh thêm tình cảnh tù đày của người chiến sĩ cách mạng. Song gắn “khách không nhà” với “năm châu”, nhà thơ như muốn vẽ chân dung người tù một cách phóng khoáng hơn. Nghệ thuật bình đối trong hai câu này không làm cho ý thơ đối chọi. Ngược lại, sự đối lập ấy lại càng tôn hơn lên chân dung khác thường của người tù: một con người của năm châu, bốn biển, của toàn thế giới. Hai câu thơ này vẫn tiếp nối giọng điệu cười cợt, vui đùa như giọng điệu của hai câu đề.

Như vậy, từ ý thơ đến giọng thơ, bốn câu đầu bài thơ toát ra tinh thần lạc quan yêu đời, thái độ ngạo nghễ coi thường lao tù của người tù – chí sĩ Phan Bội Châu.

Chính thái độ ngạo nghễ, tinh thần lạc quan yêu đời đã phân tích ở trên là một biểu hiện của khí phách hiên ngang, bất khuất.

Nhưng bốn câu cuối thì thể hiện khí phách hiên ngang, bất khuất ở các khía cạnh:

Hai câu 5, 6 là hai câu luận, có nhiệm vụ bàn luận, mở rộng vân đề. Ở đây tác giả khẳng định: chí lớn tài cao của người chiến sĩ cách mạng không cảnh tù đày nào có thể đè bẹp. Do đó, bị bắt nhưng người tù vẫn tự chủ:

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Các động tác “bủa tay”, “mở miệng” thể hiện thái độ coi thường, coi khinh mọi khó khăn trước mắt

Hai câu 7, 8 là hai câu kết, có nhiệm vụ nâng cao vấn đề hoặc bày tỏ cảm xúc của tác giả. Trong bài thơ này, hai câu kết khẳng định dứt khoát niềm tin của nhà thơ vào tương lai, thể hiện thái độ coi thường lao tù nguy hiểm.

Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sự gì đâu.

Hai tiếng “còn” đứng cạnh nhau tạo nên âm điệu khẳng định mạnh mẽ ý chí đấu tranh cho sự nghiệp cứu nước. Nó như hai tiếng trống chắc nịch, âm vang, kích động lòng người, kết thúc một bản tình ca.

Bài thơ có sức truyền cảm lớn, trước tiên do nhiệt tình yêu nước cháy bỏng của nhà thơ. Bị bắt, có nguy cơ Phan Bội Châu bị giao lại cho thực dân Pháp, kẻ đã kết án tử hình vắng mặt ông, song tác giả bài thơ không một chút bi quan, một chút chán nản. Từ đầu đến cuối, nhà thơ vẫn thể hiện tinh thần lạc quan, niềm vui sắt đá vào sự nghiệp đang theo đuổi: sự nghiệp cứu nước. Mặt khác, sức truyền cảm lớn của bài thơ được khơi dậy từ chính giọng thơ vui vui, yêu đời thể hiện một tâm hồn cứng cỏi, một thái độ hiên ngang. Nó kích thích ý chí quật cường của người đọc, nhất là của lớp thanh niên và trung niên.

Bài tham khảo 2:

Vẫn viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật; giọng thơ mạnh mẽ hào hùng. Lúc bấy giờ, nhà thơ đang bị đày đọa vô cùng dã man: cổ đeo gông, chân tay bị xiềng xích trong nhà ngục tử tù Quảng Đông. Có biết cảnh ngộ ấy mới cảm thấy cốt cách và khí phách anh hùng của Phan Bội Châu qua “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác”.

Phần đề nói đến chết và sống. Câu phá đề bộc lộ một tâm thế coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, sẵn sàng chấp nhận mọi hi sinh. “Nếu chết xong đi thế cũng hay, bởi lẽ tự biết: Chết vì nước là chết vinh; Chết vinh còn hơn sống nhục trong vòng nô lệ! Câu thừa đề lại nói đến sống: “Còn ta, ta lại tính cho mày!” “Mày” là bè lũ thực dân Pháp, lũ vua quan bán nước, là bọn phản động Long Tế Quang, v.v… “Tính” là tính sổ, tính tội ác tày trời của bè lũ. Bao căm thù, khinh bí dồn vào chữ “mày” cuối câu.

Hai câu thực đăng đối, tác giả sử dụng hình ảnh tượng trưng, biểu lộ một niềm tin sáng chói. Người anh hùng chân chính (thần thánh) không thể chết (chôn) trong chốn ngục tù. Con đường cách mạng “ruổi gió mây” không kẻ thù nào có thể ngăn cản được. Ngôn ngữ thơ vừa đối xứng, vừa tương phản đầy ấn tượng. Hai chữ “đâu có” với “há không” đối lập, phủ định và khẳng định một sự nghiệp chính nghĩa cao cả:

“Trời đâu có ngục chôn thần thánh,
Đất há không đường ruổi gió mây”.

Phần luận thể hiện một cốt cách anh hùng của người chiến sĩ vĩ đại. Một chí lớn quyết vượt qua mọi thử thách, không lùi bước trước mọi nguy hiểm khó khăn để hướng tới sự nghiệp: “tát cạn bể Đông”, “mỏ quang ngàn Bắc”. Phan Bội Châu đã từng kêu gọi đồng chí, đồng bào đoàn kết đứng lên chiến đấu bằng gươm giáo, bằng xương máu, bằng thơ ca: “thiết chiến, thiệt chiến, huyết chiến” để giành lại tự do. “Chèo tấc lưỡi”, “vảy đôi tay” là những hoán dụ nghệ thuật đầy ý nghĩa. Ở phần thực đã nói đến trời, đất, tiếp theo phần luận lại hướng tới bể Đông, ngàn Bắc, một không gian nghệ thuật kì vĩ mở ra, và đó cũng là tầm vóc lớn lao của người anh hùng xứ Nghệ dù máu chảy đầu rơi mà “gan không núng, chí không mòn”:

“Tát cạn bể Đông chèo tấc lưỡi,
Mở quang ngàn Bắc vẫy đôi tay”.

Hai câu kết là lời động viên, kêu gọi chiến đấu. Sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc là to lớn, lâu dài (ngàn thu) há đâu chỉ ngày một ngày hai. Cho nên “gắng sức”, phải biết “xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ” (Bài ca chúc tết thanh niên). Và đó cũng là lời tự động viên mình

“Anh em ai nấy xin thêm gắng,
Công nghiệp ngàn thu há một ngày”.

Ngôn ngữ khoa trương, hình ảnh tượng trưng, hài hòa cân xứng, giọng thơ hào hùng là vẻ đẹp bài thơ thứ hai trong chùm thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” này. Nó là bài ca yêu nước. Cốt cách anh hùng, khí phách anh hùng của người con vĩ đại xứ Nghệ làm cho chúng ta cảm phục, ngưỡng mộ.


3. Phân tích hình ảnh nhà cách mạng yêu nước qua bài thơ Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác

Phan Bội Châu là nhà yêu nước, nhà cách mạng lớn của dân tộc Việt Nam trong hơn hai mươi năm đầu thế kỉ XX. Ông còn là nhà văn, nhà thơ lớn với sự nghiệp sáng tác khá đồ sộ, gồm nhiều thể loại, thấm đượm tình cảm yêu nước thương dân thống thiết.

Cảm tác vào ngục Quảng Đông là một trong hai bài thơ được ông sáng tác khi bị chính quyền tỉnh Quảng Đông bắt giam năm 1913. Đọc lại bài thơ ta càng hiểu rõ phong thái ung dung của một lãnh tụ cách mạng kiên cường của dân tộc: vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu.

Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù.
Đã khách không nhà trong bốn bể,
Lại người có tội giữa năm châu.
Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.
Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!

Bị chính quyền Trung Quốc bắt giam, giao cho thực dân Pháp, bị tòa án thực dân ở Đông Dương kết án tử hình vắng mặt nhưng ông vẫn coi chuyện bị bắt giam là những phút nghỉ chân. Trong tù, ông thấy mình vẫn là người có tài cao, chí lớn, vẫn là người phong lưu. Câu đầu khẳng định dù là hoàn cảnh có thay đổi nhưng phong độ anh hùng, tư thái phong lưu không hề thay đỗi: Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu.

Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù

Lời thơ tự nhiên, pha chút tự hào đùa vui biểu hiện thái độ coi thường hiểm nguy, không nao núng tinh thần. Nhà thơ coi việc ở tù như một việc bình thường trong cuộc sống. Đó là cách suy nghĩ biến việc nghiêm trọng (ở tù và bị kết án tử hình) thành việc bình thường đề tự động viên, an ủi mình.

Hai câu tiếp theo là sự cảm nhận có phần chua xót, mỉa mai PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả trước tình cảnh bibi đát của đất nước và của chính minh:

Đã khách không nhà trong bốn bể,
Lại người có tội giữa năm châu.

Thực vậy, nước mất, nhà tan, ông trở thành kẻ không nhà, bị bọn thực dân săn đuổi, kết án. Tuy cảm nhận về bản thân nhưng câu thơ mang hàm ý rộng lớn. Đó là nỗi đau của cả quê hương, đất nước, của cả dân tộc. Nỗi đau mang tầm vóc lớn lao.

Đến đây ta mới thấy hết khí phách anh hùng của Phan Bội Châu. Trong hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy (khách không nhà, người có tội), ông vẫn glữ vững chí khí hào kiệt. Bốn câu sau thể hiện hoài bão lớn lao:

Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Kinh tế đây tức kinh bang tế thế nghĩa là trị quốc an dân. Thái độ dang tay ôm chặt thật kiên quyết, mãnh liệt, cho thấy ý chí vượt mọi khó khăn gian khổ để giữ giữ vững sự nghiệp đang đeo đuổi của nhà chí sĩ:

Mở miệng cười tan cuộc oán thù.

Hình ảnh lạc quan, cách nói khoáng đạt. Oán thù do giặc Pháp, do chính quyền Quảng Đông gây ra sẽ được hóa giải khi nào? Chắc chắn chỉ có được khi thắng lợi. Thật là khẩu khí phi thường của một lãnh tụ cách mạng đầy bản lĩnh và tự tin. Tinh thần cách mạng ấy thể hiện chí khí phi thường của tác giả, tạo nên sức mạnh cho lời thơ.

Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!

Tư thế lẫm liệt hiên ngang của người anh hùng một lần nữa được khẳng định bằng những lời đúc kết thật trọn vẹn: coi thường nguy hiểm, kiên trì hoạt động, tin tưởng ở sự nghiệp cách mạng. Lời thơ dõng dạc, dứt khoát càng tăng thêm niềm tin và ý chí gang thép của tác giả.

Tóm lại, bài Cảm tác trong nhà ngục Quảng Đông phong phú về giọng vẻ, thể hiện nét đẹp kì vĩ của một nhà cách mạng lớn của dân tộc với những hoài bão cao cả là sức truyền cảm lớn từ một trái tim yêu nước cháy bỏng. Phan Bội Châu quả rất xứng đáng với lời nhận định của Bác: “Bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập dân tộc, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn kính”.


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác sgk Ngữ văn 8 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các bạn làm bài Ngữ văn tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com