Trả lời câu hỏi 1 2 bài 6 trang 40 sgk Lịch sử 10

Hướng dẫn Trả lời câu hỏi Bài 6: Các quốc gia Ấn Độ và văn hóa truyền thống Ấn Độ, sách giáo khoa Lịch sử lớp 10. Nội dung trả lời câu hỏi 1 2 bài 6 trang 40 sgk Lịch sử 10 bao gồm đầy đủ kiến thức lý thuyết và bài tập có trong SGK để giúp các em học tốt môn lịch sử lớp 10.


Lý thuyết

Lãnh thổ Ấn Độ như hình “tam giác ngược”, hai bên giáp biển, cạnh phía bắc nối với châu Á, nhưng lại ngăn cách bởi dãy núi cao nhất thế giới – dãy Hi-ma-lay-a, nên còn được gọi là Tiểu lục địa Nam Á. Ấn Độ còn là một lãnh thổ khá rộng lớn, hơn 3 triệu km2, gấp khoảng 10 lần Việt Nam và gần 15 lần nước Anh. Hai bờ biển lại có hai dãy núi Đông Gát và Tây Gát, ngăn cách với cao nguyên Đê-can. Núi cao, rừng rậm, rừng nguyên sinh đã khiến lãnh thổ Ấn Độ bị ngăn cách nhau đáng kể giữa Đông và Tây, Bắc và Nam. Chỉ có miền Bắc là bằng phẳng bởi lưu vực của hai con sông lớn. Xưa kia, Ấn Độ gồm cả sông ở Tây Bắc là sông Ấn (Indus), nhờ nó mà có tên gọi quyết định (Hindustan) – nơi khởi nguồn của nền văn hoá Ấn Độ. Còn ở Đông Bắc bán đảo là lưu vực sông Hằng (Ganga) rộng lớn và màu mỡ, là quê hương, nơi sinh trưởng của nền văn hoá truyền thống, của nền văn minh Ấn Độ.

Bài 6: Các quốc gia Ấn Độ và văn hóa truyền thống Ấn Độ

Bài 6: Các quốc gia Ấn Độ và văn hóa truyền thống Ấn Độ
Chữ Phạn (Sankrit)

1. Thời kì các quốc gia đầu tiên

– Khoảng 1500 năm trước Công nguyên, vùng sông Hằng ở Đông Bắc có điều kiện thuận lợi, mưa thuận gió hoà, nên đã tiến bộ vượt lên, có vai trò nổi trội trên cả miền Bắc Ấn Độ.

– Từ các bộ lạc trồng lúa và chăn nuôi trên bờ sông Hằng, bắt đầu hình thành một số nhà nước đầu tiên, đứng đầu là các tiểu vương, thường xuyên phát triển kinh tế, xây dựng nước lớn mạnh và tranh giành ảnh hưởng với nhau.

– Đến 500 năm trước Công nguyên, nước Ma-ga-đa tỏ ra lớn mạnh hơn cả, được nhiều nước khác tôn phục. Kinh đô của nó – Pa-ta-li-pu-tra, được người hi Lạp đến thăm đã kể lại: có phố dài 2 km, trên bến dưới thuyền, dọc hữu ngạn của sông Hằng. Vua mở đầu nước này – Bim-bi-sa-ra, được coi là cùng thời và là bạn của Phật tổ.

– Trải qua hơn 10 đời vua, đến ông vua kiệt xuất nhất của nước này và nổi tiếng bậc nhất trong lịch sử Ấn Độ, là vua A-sô-ca (thế kỉ III trước Công nguyên). A-sô-ca xây dựng đất nước hùng cường, rồi đem quân đi đánh các nước nhỏ, nhằm mục đích phát triển, thâu tóm quyền lực và thống nhất Ấn Độ. Sau khi đánh thắng nhiều đối thủ, ông đã thống nhất gần kết bán đảo Ấn Độ, chỉ trừ một mỏm đất ở cực Nam xa xôi (sau là nước Pa-đy-a).

– Chán cảnh binh đao, tàn sát, ông trở về, một lòng theo Phật giáo và tạo điều kiện để Phật giáo truyền bá rộng khắp. Ở nhiều nơi, ông còn cho dựng nhiều cột đá, khắc chữ, gọi là “chỉ dụ A-sô-ca”, nói về lòng sùng tín và việc cai quản đất nước của mình.

A-sô-ca qua đời cuối thế kỉ III trước Công nguyên. Ấn Độ bước vào một thời kỳ chia rẽ, khủng hoảng kéo dài mấy thế kỉ cuối trước Công nguyên cho đến đầu Công nguyên.

2. Thời kỳ Vương triều Gúp-ta và sự phát triển của nền văn hoá truyền thống Ấn Độ

– Đến đầu Công nguyên, miền Bắc Ấn Độ đã được thống nhất lại, bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ phát triển cao và rất đặc sắc của lịch sử Ấn Độ – thời Vương triều Gúp-ta.

– Vương triều này do vua Gúp-ta lập, có vai trò tổ chức kháng cự, không cho các tộc ở Trung Á xâm lấn từ phía Tây – Bắc, thống nhất miền Bắc Ấn Độ; tiếp đó, tấn công chiếm cao nguyên Đê-can, làm chủ gần như toàn bộ miền Trung Ấn Độ.

– Vương triều Gúp-ta có 9 đời vua, trải qua gần 150 năm (319 – 467) vẫn giữ được sự phát triển và nét đặc sắc, cả dưới thời Hậu Gúp-ta (467 – 606) và Vương triều Hác-sa tiếp theo (606 – 647), tức là từ thế kỉ IV đến thế kỉ VII. Nét đặc sắc nổi bật của thời kỳ này là sự định hình và phát triển của nền văn hoá truyền thống ở Ấn Độ.

– Ở bắc Ấn Độ – thành phố Ka-pi-la-va-xtu là quê hương của nhà hiền triết Sít-đác-ta tự xưng là Sa-ky-a Mu-ni (Thích Ca Mâu Ni), sau trở thành Phật tổ. Đạo Phật được truyền bá dưới thời vua A-sô-ca, tiếp tục dưới triều Gúp-ta và cả dưới triều Hác-sa đến thế kỉ VII.

– Cùng với sự truyền bá Phật giáo và lòng tôn sùng đối với Phật, người ta đã làm nhiều ngôi chùa hang bằng cách đục đẽo hang đá thành hàng chục ngôi chùa rất kì vĩ, là những công trình kiến trúc đá rất đẹp và rất lớn. Cùng với chùa là những pho tượng Phật điêu khắc bằng đá hoặc trên đá.

– Ngoài ra ở Ấn Độ, đạo Hindu (hay Ấn Độ giáo) cũng ra đời và phát triển. Đây là tôn giáo bắt nguồn từ tín ngưỡng cổ xưa của người Ấn. Xã hội Ấn tôn thờ rất nhiều thần thánh, mà chủ yếu là 4 thần: Bộ ba Bra-ma (thần Sáng tạo), Si-va (thần Huỷ diệt), Vi-snu (thần Bảo hộ) và In-đra (thần Sấm sét) là những lực lượng siêu nhiên mà con người phải sợ hãi. Người ta cũng xây dựng nhiều ngôi đền bằng đá rất đồ sộ, hình chóp núi, là nơi ngự trị của thần thánh và cũng tạc bằng đá hoặc đúc bằng đồng rất nhiều hình tượng thần thánh để thờ, làm thành những phong cách nghệ thuật tạc tượng rất độc đáo.

– Người Ấn Độ sớm có chữ viết, như chữ cổ vùng sông Ấn có từ 3000 năm trước Công nguyên, chữ cổ vùng sông Hằng có khoảng từ 1000 năm trước Công nguyên. Ban đầu là kiểu chữ đơn giản Bra-mi (Brahmi), được dùng để khắc trên cột A-sô-ca, rồi sáng tạo thành hệ chữ Phạn (Sanskrit), được hoàn thiện từ thời A-sô-ca cả chữ viết và ngữ pháp. Ngôn ngữ Phạn dùng phổ biến dưới thời Gúp-ta trong việc viết bia. Ngôn ngữ và văn tự phát triển là điều kiện để chuyển tải, truyền bá văn học, văn hoá Ấn Độ.

– Thời Gúp-ta đã có những công trình kiến trúc, tượng, những tác phẩm tuyệt vời, làm nền tảng cho văn hoá truyền thống Ấn Độ, có giá trị vĩnh cửu xuyên suốt thời gian lịch sử của loài người.

– Ấn Độ có một nền văn hoá lâu đời và phát triển cao, chủ yếu gồm:

+ Tôn giáo (Phật giáo và Hindu giáo) cùng với những tập tục và các lễ nghi tôn giáo.

+ Cùng với tôn giáo là nghệ thuật kiến trúc đền chùa, lăng mộ như kiểu đền tháp hình núi, lăng mộ hình bát úp, bán cầu.

+ Nghệ thuật tạc tượng Phật giáo, Hindu giáo qua các thời kỳ, các phong cách kiểu dáng.

+ Chữ viết, đặc biệt là chữ Phạn, dùng để viết văn, ghi tài liệu, khắc bia và chữ Pa-li dùng để viết kinh Phật.

+ Từ chữ viết mà văn học Hindu và văn học truyền thống được ghi lại, được sáng tạo, như hai bộ sử thi Ma-ha-bha-ra-ta và Ra-ma-ya-na, các tác phẩm của Ka-li-đa-sa như Sơ-kun-tơ-la…

+ Người Ấn Độ đã mang văn hoá, đặc biệt là văn học truyền thống của mình, truyền bá ra bên ngoài.

+ Các nước Đông Nam Á không chỉ chịu ảnh hưởng rất rõ rệt, mà còn cố học hỏi văn hoá truyền thống Ấn Độ, đặc biệt là học và sử dụng chữ cổ Ấn Độ, rồi từ đó mà sáng tạo ra chữ viết của mình.

Trước khi đi vào Hướng dẫn Trả lời câu hỏi 1 2 bài 6 trang 40 sgk Lịch sử 10 chúng ta hãy trả lời câu hỏi in nghiêng giữa bài (Câu hỏi thảo luận trên lớp) sau đây:


Thảo luận

1. Trả lời câu hỏi bài 6 trang 39 sgk Lịch sử 10

Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước Ma-ga-đa diễn ra như thế nào?

Trả lời:

– Khoảng 1500 năm TCN ở trên bờ sông Hằng, bắt đầu hình thành một số nhà nước đầu tiên, đứng đầu là các tiểu vương.

– Đến khoảng 500 năm trước Công nguyên, nước Ma-ga-đa lớn mạnh hơn cả, được nhiều nước khác tôn phục.Vua mở đầu nước này là Bim-bi-sa-ra.

– Trải qua hơn 10 đời vua, đến thế kỷ III, xuất hiện ông vua kiệt xuất nhất nước này và cũng là ông vua nổi tiếng nhất của Ấn Độ là vua A-sô-ca ông đã xây dựng đất nước hùng cường, thống nhất gần hết bán đảo Ấn Độ.


2. Trả lời câu hỏi bài 6 trang 40 sgk Lịch sử 10

Trình bày sự phát triển của văn hóa truyền thống Ấn Độ.

Trả lời:

Từ thế kỷ IV đến thế kỉ VII là thời kỳ định hình và phát triển của văn hóa truyền thống Ấn Độ:

– Đạo Phật: Được truyền bá mạnh mẽ dưới thời A-sô-ca, tiếp tục dưới các triều đại Gúp-ta và Hác-sa, đến thế kỉ VII. Hàng chục ngôi chùa hang được xây dựng. Cùng với đó là những pho tượng Phật được điêu khắc bằng đá hoặc trên đá.

– Ấn Độ giáo (hay Hinđu giáo) cũng được ra đời và phát triển. Ấn Độ giáo thờ rất nhiều thần nhưng chủ yếu là bốn thần sau: bộ ba thần Brama (thần Sáng tạo), Siva (thần Hủy diệt), Visnu (thần bảo tồn) và Inđra (thần Sấm sét).

– Nhiều đền đá được xây dựng, nhiều pho tượng thần thánh với nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo.

– Về chữ viết: người Ấn Độ sớm có chữ viết, lúc đầu là kiểu chữ Brahmi, rồi sau đó sáng tạo ra chữ Phạn (Sanskrit).

– Thời Gúp-ta có những công trình kiến trúc, điêu khắc, những tác phẩm văn học tuyệt vời làm nền cho văn hóa truyền thống Ấn Độ.

Dưới đây là Hướng dẫn Trả lời câu hỏi 1 2 bài 6 trang 40 sgk Lịch sử 10. Các bạn hãy đọc kỹ đầu bài trước khi giải nhé!


Câu hỏi

Giaibaisgk.com giới thiệu với các bạn đầy đủ phương pháp trả lời câu hỏi lịch sử 10 kèm câu trả lời chi tiết câu hỏi 1 2 bài 6 trang 40 sgk Lịch sử 10 của Bài 6: Các quốc gia Ấn Độ và văn hóa truyền thống Ấn Độ trong Chương IV – Ấn Độ thời phong kiến của Phần một. Lịch sử thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại cho các bạn tham khảo. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:

1. Trả lời câu hỏi 1 bài 6 trang 40 sgk Lịch sử 10

Tại sao nói thời Gúp-ta là thời kì định hình và phát triển của văn hóa truyền thống Ấn Độ?

Trả lời:

Thời Gúp-ta được gọi là thời kì định hình và phát triển của văn hoá truyền thống Ấn Độ vì:

Đến thời kỳ này văn hóa Ấn Độ phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu rực rỡ về nhiều mặt, những thành tựu văn hóa này là cơ sở để phát triển văn hóa Ấn Độ vào những thời kỳ sau đó. Một số thành tựu mang đặc sắc Ấn Độ như Phật giáo, Hinđu giáo, chữ Phạn…


2. Trả lời câu hỏi 2 bài 6 trang 40 sgk Lịch sử 10

Những yếu tố văn hóa truyền thống nào của Ấn Độ có ảnh hưởng ra bên ngoài và ảnh hưởng đến những nơi nào?

Trả lời:

– Những yếu tố văn hóa truyền thống Ấn Độ ảnh hưởng ra bên ngoài:

+ Phật giáo và Hin – đu giáo, đặc biệt là Phật giáo.

+ Chữ viết, đặc biệt là chữ Phạn.

+ Văn học.

+ Nghệ thuật kiến trúc, nhất là đền chùa, lăng mộ.

– Ảnh hưởng đến các quốc gia trên thế giới trong đó ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến Trung Quốc, Việt Nam và hàng loạt các nước ở khu vực Đông Nam Á khác…


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Chúc các bạn làm bài tốt cùng giải bài tập sgk lịch sử lớp 10 với trả lời câu hỏi 1 2 bài 6 trang 40 sgk Lịch sử 10!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com