Soạn bài Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) sgk Ngữ văn 9 tập 2

Hướng dẫn Soạn Bài 23 sách giáo khoa Ngữ văn 9 tập hai. Nội dung bài Soạn bài Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) sgk Ngữ văn 9 tập 2 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, cảm thụ, phân tích, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 9 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn 9, ôn thi vào lớp 10.


I – ĐỀ BÀI NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN (HOẶC ĐOẠN TRÍCH)

Đọc các đề bài sau và trả lời câu hỏi.

Đề 1. Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương ở Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.

Đề 2. Phân tích diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.

Đề 3. Suy nghĩ về thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du.

Đề 4. Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.

Câu hỏi:


Câu hỏi trang 65 sgk Ngữ văn 9 tập 2

a) Các đề bài trên đã nêu ra những vấn đề nghị luận nào về tác phẩm truyện?

b) Các từ suy nghĩ, phân tích trong đề bài đòi hỏi bài làm phải khác nhau như thế nào? (Gợi ý: đề phân tích yêu cầu phân tích tác phẩm để nêu ra nhận xét. Đề suy nghĩ yêu cầu đề xuất nhận xét về tác phẩm trên cơ sở một tư tưởng, góc nhìn nào đó, ví dụ quyền sống của con người, địa vị của người phụ nữ trong xã hội,… Tuy nhiên đây không phải là hai “kiểu bài” nghị luận.)

Trả lời:

a) Các đề bài nêu những vấn đề về tính cách, số phận của nhân vật trong tác phẩm.

– Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương ở Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.

– Diễn biến cốt truyện trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.

– Thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều của Nguyễn Du.

– Đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.

b) – Đề “phân tích” yêu cầu phân tích tác phẩm rồi sau đó đưa ra nhận xét, thiên về tính khách quan.

– Đề “suy nghĩ” yêu cầu nêu ra nhận xét về tác phẩm trên cơ sở một tư tưởng, góc nhìn nào đó, thiên về chủ quan.


II – CÁC BƯỚC LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VỀ TÁC PHẨM TRUYỆN (HOẶC ĐOẠN TRÍCH)

Cho đề bài: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.

1. Tìm hiểu đề và tìm ý


2. Lập dàn bài


3. Viết bài



4. Đọc lại bài viết và sửa chữa

Đọc lại các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài xem có phù hợp với vấn đề nghị luận, với dàn bài không, giữa các phần có sự liên kết hợp lí chưa. Sửa chữa bài viết cho hoàn chỉnh.


III – LUYỆN TẬP

Câu hỏi trang 68 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Cho đề bài: Suy nghĩ của em về truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao.

Hãy viết phần Mở bài và một đoạn phần Thân bài.

Trả lời:

♦ Lập dàn bài:

a) Mở bài: Giới thiệu về tác giả Nam Cao và truyện ngắn Lão Hạc.

b) Thân bài: Nêu những suy nghĩ về nhân vật.

– Cảnh ngộ éo le của lão Hạc: vợ chết, con đi xa, một mình cô đơn lại bị ốm nặng.

– Tình thương con của một người cha (dù đói nhưng không bán  mảnh vườn, giữ lại để cho con ngày trở về).

– Niềm day dứt của lão hạc sau khi bán con chó Vàng.

– Cái chết đau đớn của lão Hạc.

– Tấm lòng nhân đạo của nhà văn.

c) Kết bài: Sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật, thành công củ nhà văn khi xây dựng nhân vật lão Hạc.

♦ Viết đoạn văn: dựa vào các ý chính trên. Tham khảo một số đoạn văn dưới đây.

a) Mở bài:

Nam Cao là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Truyện của Nam Cao nóng hổi chất hiện thực của thời đại và chan chứa tấm lòng yêu thương con người, đặc biệt là những người khốn khổ. Cùng với Chí Phèo, Trăng sáng, Đời thừa,…. Lão Hạc là truyện ngắn đặc sắc. Nhân vật trung tâm của thiên truyện là Lão Hạc, một người nông dân gặp nhiều nỗi khổ tâm và bất hạnh vì nghèo đói nhưng chất phác, đôn hậu, thương con.

Hoặc:

Cùng với Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,… Nam Cao là một cái tên không thể thiếu khi nhắc tới những nhà văn hiện thực nhân đạo. Các sáng tác của ông vừa rất mực chân thực, vừa có một ý vị triết lí mang ý nghĩa nhân bản sâu sắc. Truyện ngắn “Lão Hạc” là một trong những tác phẩm tiêu biểu như thế! Truyện đã thể hiện một cách chân thực, cảm động số phận người nông dân trong xã hội cũ và phẩm chất cao quý tiềm tàng của họ.

Hoặc:

Đề tài “người nông dân” Việt Nam có lẽ không hề xa lạ đối với mỗi chúng ta. Đây là đề tài được rất nhiều nhà văn khai thác và khai thác thành công, tiêu biểu như Ngô Tất Tố, Kim Lân,… và không thể không kể tới Nam Cao. Nhắc tới Nam Cao, chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm “Lão Hạc” – tác phẩm xuất sắc nổi tiếng của Nam Cao về đề tài “người nông dân”. Bằng ngòi bút hiện thực của mình, Nam Cao đã đem tới cho người đọc cái nhìn chân thực, sâu sắc về số phận của người nông dân trong xã hội cũ và nhân cách sống cao đẹp của họ, mà ở đây là Lão Hạc.

b) Thân bài:

Ở lão Hạc có một tấm lòng vị tha, nhân hậu. Tình cảm của lão với “cậu Vàng” được tác giả thể hiện thật cảm động. Lão gọi nó là “cậu Vàng” như “một bà hiếm hoi gọi đứa con cầu tự”. Lão bắt rận, cho nó ăn cơm trong một cái bát như nhà giàu.Lão ăn gì cũng không quên phần nó, gắp cho nó một miếng; lão ăn bao nhiêu, nó cũng ăn như thế, thậm chí còn hơn phần lão…Lão coi nó như một người bạn,ngày ngày lão tâm sự, trò chuyện với nó như thể nó cũng là con người. Tình thế cùng đường khiến lão phải bán nó thì trong lão diễn ra sự dằn vặt, đau khổ tột độ. Lão kể cho ông giáo nghe về việc bán “cậu Vàng” với tâm trạng vô cùng đau đớn: “lão cười như mếu và đôi mắt ầng ậng nước”. Đến nỗi ông giáo thương quá, “muốn ôm chầm lấy lão mà òa lên khóc”.Khi nhắc đến việc “cậu Vàng” bị lừa rồi bị bắt, lão Hạc không nén nổi đau dớn cứ dội lên “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Lão Hạc đau đớn đến thế không phải chỉ vì quá thương con chó mà còn vì không thể tha thứ cho mình vì đã trót lừa một con chó. Ông lão quá lương thiện ấy cảm thấy lương tâm đau nhói khi nhận thấy trong đôi mắt con chó có cái nhìn trách móc. Phải có trái tim vô cùng nhân hậu, trong sạch thì mới bị giày vò lương tâm đến thế, mới cảm thấy có lỗi với một con chó như vậy!

Hoặc:

Lão Hạc mang một tấm lòng tự trong cao cả. Lão tự trọng từ với một con chó, với con trai lão, với bà con hàng xóm, với ông giáo và với cả chính bản thân mình.Khi bán con chó, lão đau khổ, vì lão “bằng này tuổi đầu mà còn trót lừa một con chó”. Lão nhớ ảnh mắt của cậu Vàng, mà theo như lời lão là một ánh mắt đầy trách móc, mắng lão tệ hại: “A! Lão già tệ lắm!Tôi ăn ở với lão thế mà lão đối xử với tôi thế này à”. Ánh nhìn đó làm lão ám ảnh và day dứt không nguôi. Lão từ chối mọi sự giúp đỡ của ông giáo, lão lại chuẩn bị sẵn tiền làm ma cho bản thân, gửi ông giáo, để khi lão có việc thì ông giáo đưa ra, coi như là của lão có chút ít, còn lại thì nhờ bà con hàng xóm cả. Lão làm vậy để không phiền lụy tới ai. Từ đó, lão bòn vườn, mò cua,ốc, trai ăn để sống qua ngày, thà chết chứ không chịu mắc nợ ai. Có lẽ hành động bán cậu Vàng của lão chính là bước chuẩn bị cho cái chết của lão. Lão xin Binh Tư ít bả chó với lý do bắt cho nhà khác – một lý do làm Binh Tư tự nghĩ lão giả bộ hiền lành thế nhưng cũng ghê ra phết, một lý do làm ông giáo hiểu lầm lão, hiểu lầm một con người đã “khóc vì trót lừa một con chó, một con người nhịn ăn để có tiền làm ma”.Vậy nhưng hóa ra, lão ăn bả chó để tử tự, để giữ vẹn nguyên tấm lòng trong sáng của lão. Lão ăn bả chó, lão chết như một con chó, vật vã, quằn quại trong đau đớn, để chuộc tội với cậu Vàng. Lão chết cũng là để không bị cuộc sống dồn đẩy, bị sa hóa biến chất như Binh Tư, hay Chí Phèo.Cái chết của lão cũng chính là sự tự trọng của lão với con lão. Lão sống mà phải dựa vào tiền của con thì thà lão chết còn hơn.Lão Hạc có một tấm lòng thật đáng trân trọng – lòng tự trọng của lão nông nghèo nhưng trong sạch. Lão chọn “chết trong còn hơn sống đục” khi bị dồn vào đường cùng.

Hoặc:

Lão Hạc xuất hiện trong tác phẩm của Nam Cao là một người có cuộc đời đau khổ và bất hạnh.Vợ mất sớm, một mình lão “gà trống nuôi con”. Đến tuổi anh con trai lấy vợ thì nhà lão nghèo quá, nhà gái lại thách cao, nên anh con trai không lấy được vợ, quẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Những ngày tháng xa con, lão sống trong nỗi lo âu, phiền muộn và day dứt vì chưa làm tròn bổn phận của người cha. Còn gì xót xa hơn khi tuổi già gần đất xa trời, lão phải sống trong cô độc, thui thủi một mình. Bầu bạn với Lão chỉ có con chó vàng – kỉ vật của người con để lại. Lão yêu nó, coi nó như người thân. Nhưng sự túng quẫn ngày càng đe dọa lão, lão phải bán “cậu Vàng” đi vì không thể lo mỗi ngày 3 hào gạo cho cả nó và lão. Sau trận bão, lão không thể kiếm ra tiền mà “tiêu một xu cũng là tiêu vào tiền của cháu”. Ông lão nông nghèo khổ ấy cứ băn khoăn, day dứt mãi vì đã trót lừa một con chó. Sau khi bán chó, lão chỉ ăn khoai; nhưng rồi khoai cũng hết. Từ đó, lão chế tạo được món gì ăn món ấy. Đến cuối cùng, lão quyết định tự tử bằng bả chó. Lão chết vì không còn đường sống. Ông lão nông dân suốt đời lao động cần cù ấy không thể sống, dù là sống trong nghèo khổ.


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Cách làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) sgk Ngữ văn 9 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các bạn làm bài Ngữ văn tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com