Soạn bài Tiếng nói của văn nghệ sgk Ngữ văn 9 tập 2

Hướng dẫn Soạn Bài 19 sách giáo khoa Ngữ văn 9 tập hai. Nội dung bài Soạn bài Tiếng nói của văn nghệ sgk Ngữ văn 9 tập 2 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, cảm thụ, phân tích, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 9 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn 9, ôn thi vào lớp 10.


VĂN BẢN

TIẾNG NÓI CỦA VĂN NGHỆ

Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.

Nguyễn Du viết:

Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

nào phải để cho ta biết cảnh mùa xuân ra sao mà thôi, hai câu thơ làm chúng ta rung động với cái đẹp lạ lùng mà tác giả đã nhìn thấy trong cảnh vật, rung động với cảnh thiên nhiên mỗi mùa xuân lại như tái sinh, tươi trẻ mãi, và cảm thấy trong lòng ta có những sự sống tươi trẻ luôn luôn tái sinh ấy. Tất cả những cảnh, những tình, những con người, những sự việc của một cuốn tiểu thuyết, nếu chỉ làm cho trí tò mò hiểu biết của ta thỏa mãn thì đóng quyển sách lại cũng không còn gì. Nhưng chúng ta đọc các dòng cuối cùng rồi, chúng ta biết hết đầu đuôi câu chuyện rồi, chúng ta biết nàng Kiều mười lăm năm đã chìm nổi những gì, hay là An-na Ca-rê-nhi-na(1) đã chết thảm khốc ra sao, chúng ta không còn cần biết gì thêm, mà vẫn ngồi mãi trước trang sách chưa muốn gấp, đầu óc bâng khuâng nặng những suy nghĩ, trong lòng còn vương vấn những vui buồn không bao giờ quên được nữa: chúng ta vừa nghe thấy lời gửi từ mấy trăm năm trước của Nguyễn Du hay Tôn-xtôi.

Lời gửi của nghệ thuật không những là bài học luân lí hay một triết lí về đời người, hay những lời khuyên xử thế, hay một sự thực tâm lí, hoặc xã hội.

Nếu Truyện Kiều rút ra chỉ còn là:

Trăm năm trong cõi người ta,
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.

hoặc:

Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

thì tác phẩm của Nguyễn Du sẽ biến thành một thứ “Phật giả diễn ca”, cũng như An-na ca-rê-nhi-na sẽ biến thành “Bác ái(2) giáo diễn thuyết”.

Không, lời gửi của một Nguyễn Du, một Tôn-xtôi cho nhân loại phức tạp hơn, cũng phong phú và sâu sắc hơn. Chúng ta nhận những nghệ sĩ vĩ đại ấy không những là mấy học thuyết luân lí(3), triết học(4), mà tất cả những say sưa, vui buồn, yêu ghét, mơ mộng, phẫn khích, và biết bao nhiêu tư tưởng của từng câu thơ, từng trang sách, bao nhiêu hình ảnh đẹp đẽ mà đáng lẽ chúng ta không nhận được hằng ngày chung quanh ta, một ánh nắng, một lá cỏ, một tiếng chim, bao nhiêu bộ mặt con người trước kia ta chưa nhìn thấy, bao nhiêu vẻ mới mẻ, bao nhiêu vấn đề mà ta ngạc nhiên tìm ra ngay trong tâm hồn chúng ta nữa.

Mỗi tác phẩm lớn như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng, không bao giờ nhòa đi, ánh sáng ấy bấy giờ biến thành của ta, và chiếu tỏa lên mọi việc chúng ta sống, mọi con người ta gặp, làm cho thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ. Những nghệ sĩ lớn đem tới được cho cả thời đại họ một cách sống tâm hồn.

[…] Chúng ta nhận rõ cái kì diệu của văn nghệ khi chúng ta nghĩ đến những người rất đông, không phải ở trốn trong một cơ quan bí mật, không phải bị giam trong một nhà pha(5), mà bị tù chung thân trong cuộc đời u tối, vất vả không mở được mắt. Những người đàn bà nhà quê lam lũ ngày trước, suốt đời đầu tắt mặt tối, sống tối tăm, vậy mà biến đổi khác hẳn, khi họ ru con hay hát ghẹo nhau bằng một câu ca dao, khi họ chen nhau say mê xem một buổi chèo. Câu ca dao tự bao giờ truyền lại đã gieo vào bóng tối những cuộc đời cực nhọc ấy một ánh sáng, lay động những tình cảm, ý nghĩ khác thường. Và ánh đèn buổi chèo, những nhân vật ra trò, những lời nói, những câu hát, làm cho những con người ấy trong một buổi được cười hả dạ hay rỏ giấu một giọt nước mắt. Văn nghệ đã làm cho tâm hồn họ thực được sống. Lời gửi của văn nghệ là sự sống.

Sự sống ấy tỏa đều cho mọi vẻ, mọi mặt của tâm hồn. Văn nghệ nói chuyện với tất cả tâm hồn chúng ta, không riêng gì trí tuệ, nhất là trí thức.

Có lẽ văn nghệ rất kị “trí thức hoá” nữa. Một nghệ thuật đã trí thức hóa thường là trừu tượng, khô héo. Nhưng văn nghệ nói nhiều nhất với cảm xúc, nơi đụng chạm của tâm hồn với cuộc sống hằng ngày. Vì văn nghệ không thể sống xa lìa cuộc sống và sống là gì, nếu không phải trước hết là hành động, là làm lụng, là cần lao(7). Chiến đấu cũng là một hình thức cần lao, nói bằng danh từ khoa học, con người trước hết là con người sản xuất.

Chỗ đứng của văn nghệ chính là chỗ giao nhau của tâm hồn con người với cuộc sống hành động, cuộc đời sản xuất, cuộc đời làm lụng hằng ngày, giữa thiên nhiên và giữa những người làm lụng khác. Chỗ đứng chính của văn nghệ là ở tình yêu ghét, niềm vui buồn, ý đẹp xấu trong đời sống thiên nhiên và đời sống xã hội của chúng ta. Cảm giác, tình tự(8), đời sống cảm xúc, ấy là chiến khu(9) chính của văn nghệ. Tôn-xtôi nói vắn tắt:

Nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm.

Nghệ thuật nói nhiều với tư tưởng nữa, nghệ thuật không thể nào thiếu tư tưởng, Không tư tưởng, con người có thể nào còn là con người. Nhưng trong nghệ thuật, tư tưởng từ ngay cuộc sống hằng ngày nảy ra, và thấm trong tất cả cuộc sống. Tư tưởng của nghệ thuật không bao giờ là trí thức(10) trừu tượng một mình trên cao. Một câu thơ, một trang truyện, một vở kịch, cho đến một bức tranh, một bản đàn, ngay khi làm chúng ta rung động trong cảm xúc, có bao giờ để trí óc chúng ta nằm lười yên một chỗ. Nhưng nghệ sĩ không đến mở một cuộc thảo luận lộ liễu và khô khan với chúng ta về một vấn đề khoa học hay triết học. Anh làm cho chúng ta nhìn, nghe, rồi từ những con người, những câu chuyện, những hình ảnh, những nỗi niềm của tác phẩm sẽ khơi mung lung(11) trong trí óc ta những vấn đề suy nghĩ. Cái tư tưởng trong nghệ thuật là một tư tưởng náu mình, yên lặng. Và cái yên lặng của một câu thơ lắng sâu xuống tư tưởng. Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được. Ta sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc, không phải chỉ có trí thức. Và khác với cách đọc riêng bằng trí thức, lần đọc thứ hai chậm hơn, đòi hỏi nhiều cố gắng hơn, nhiều chỗ chúng ta dừng lại hơn. Cho đến một câu thơ kia, người đọc nghe thì thầm mãi trong lòng, mắt không rời trang giấy.

[…] Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng. Nghệ sĩ giới thiệu với chúng ta một cảm giác, tình tự, một tư tưởng bằng cách làm sống hiển hiện ngay lên trong tâm hồn chúng ta cảm giác, tình tự, tư tưởng ấy. Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy. Bắt rễ ở cuộc đời hằng ngày của con người, văn nghệ lại tạo được sự sống cho tâm hồn người. Nghệ thuật mở rộng khả năng của tâm hồn, làm cho con người vui buồn nhiều hơn, yêu thương và căm hờn được nhiều hơn, tai mắt biết nhìn, biết nghe thêm tế nhị, sống được nhiều hơn. Nghệ thuật giải phóng được cho con người khỏi những biên giới của chính mình, nghệ thuật xây dựng con người, hay nói cho đúng hơn, làm cho con người tự xây dựng được. Trên nền tảng cuộc sống của xã hội, nghệ thuật xây dựng đời sống tâm hồn cho xã hội.

1948
(Nguyễn Đình Thi(*), Tuyển tập, tập III, NXB Văn học, Hà Nội, 1997)

Chú thích:

(*) Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) quê ở Hà Nội, là thành viên của tổ chức Văn hóa cứu quốc do Đảng cộng sản thành lập từ năm 1943. Sau cách mạng tháng Tám, ông làm Tổng thư kí Hội Văn hóa cứu nước, đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên. Từ năm 1958 đến 1989, Nguyễn Đình Thi là Tổng Thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Từ năm 1995, ông là Chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật. Hoạt động văn nghệ của Nguyễn Đình Thi khá đa dạng: làm thơ, viết văn, sáng tác nhạc, soạn kịch, viết lí luận phê bình. Năm 1996, ông đã được Nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Tiểu luận Tiếng nói của văn nghệ được Nguyễn Đình Thi viết năm 1948 (thời kì đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp), in trong cuốn mấy vấn đề văn học (xuất bản năm 1956).

(1) An-na Ca-rê-nhi-na: nhân vật trong cuốn tiểu thuyết cùng tên của văn hào Nga Lép Tôn-xtôi (1828 – 1910). Đau khổ vì phải chịu những thành kiến xã hội vùi dập, vì không tìm thấy hạnh phúc trong hôn nhân, trong cuộc sống, nàng đã lao vào đoàn tàu đang chạy và chết một cách thảm khốc.

(2) Bác ái: có lòng thương yêu rộng rãi đối với mọi người. Bác ái giáo: tư tưởng chủ trương lấy tình thương yêu rộng rãi để cảm hóa mọi người.

(3) Luân lí: những quy tắc về quan hệ đạo đức giữa người với người trong xã hội.

(4) Triết học: khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất của thế giới và sự nhận thức thế giới tự nhiên, xã hội.

(5) Nhà pha: nhà tù, trại giam tù nhân.

(6) Trí thức hóa: ở đây dùng với nghĩa trở thành kiến thức sách vở, xa rời cuộc sống sinh động.

(7) Cần lao: cần cù trong lao động.

(8) Tình tự (từ cũ, nay ít dùng): tâm tình, tình cảm.

(9) Chiến khu: 1) khu vực tác chiến quan trọng, có ý nghĩa đến chiến lược; 2) khu vực được lấy làm căn cứ của cuộc chiến đấu. Ở đây dùng với nghĩa: lĩnh vực chủ yếu mà văn nghệ tác động đến.

(10) Trí thức: tri thức (dùng theo nghĩa cũ).

(11) Mung lung: 1) (khoảng không gian) rộng và lờ mờ, không rõ nét, gây cảm giác hư ảo; 2) (ý nghĩ) rộng và tràn lan, không tập trung, không rõ nét. Ở đây dùng với nghĩa sau.

Dưới đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Tiếng nói của văn nghệ sgk Ngữ văn 9 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:


ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Bố cục: 2 phần

– Phần 1: từ đầu bài cho đến “cách sống của tâm hồn”: Nội dung tiếng nói của văn nghệ.

– Phần 2: Tiếp theo đoạn 1 cho đến cuối bài: Văn nghệ mang lại nhiều giá trị thiết thực trong cuộc sống con người.

Nội dung chính: Bài tiểu luận bàn về nội dung của văn nghệ và sức mạnh kì diệu của nó đối với đời sống của con người, giúp con người được sống phong phú hơn và tự nhiên hoàn thiện nhân cách tâm hồn mình.


1. Câu 1 trang 17 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Bài nghị luận này phân tích nội dung phản ánh, thể hiện của văn nghệ, khẳng định sức mạnh lớn lao của nó đối với đời sống con người. Hãy tóm tắt hệ thống luận điểm và nhận xét về bố cục của bài nghị luận.

Trả lời:

Luận điểm:

– Văn nghệ không chỉ phản ánh thực tại khách quan mà còn là nhận thức mới mẻ, là tư tưởng, tình cảm của cá nhân nghệ sĩ.

– Tiếng nói của văn nghệ rất cần thiết với cuộc sống của mỗi người.

– Văn nghệ có khả năng cảm hóa, có sức lôi cuốn diệu kì.

⇒ Bố cục chặt chẽ.


2. Câu 2 trang 17 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Nội dung phản ánh, thể hiện của văn nghệ là gì?

Trả lời:

– Nội dung phản ánh của văn nghệ:

+ Phản ánh đời sống khách quan nhưng không sao chép thực tại.

+ Thể hiện tư tưởng của người nghệ sĩ.

+ Tác động mạnh mẽ đến người tiếp nhận.


3. Câu 3 trang 17 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Tại sao con người cần tiếng nói của văn nghệ?

Trả lời:

Con người cần tiếng nói của văn nghệ vì:

– Văn nghệ giúp tinh thần chúng ta được đầy đủ, phong phú hơn.

– Văn nghệ góp phần làm cho đời sống của chúng ta ngày càng đẹp đẽ, đáng yêu hơn.


4. Câu 4 trang 17 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Tiếng nói của văn nghệ đến với người đọc bằng cách nào mà có khả năng kì diệu đến vậy? (Tư tưởng, nội dung của văn nghệ được thể hiện bằng hình thức nào? Tác phẩm nghệ thuật tác động đến người đọc qua con đường nào, bằng cách gì?)

Trả lời:

Văn nghệ đến với người đọc chủ yếu qua con đường tình cảm. Văn nghệ khiến cho ta cảm thấy yêu cuộc sống hơn, đồng thời muốn đóng góp công sức của mình để làm cho cuộc sống ngày càng đẹp hơn.


5. Câu 5* trang 17 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Nêu vài nét đặc sắc trong nghệ thuật nghị luận của Nguyễn Đình Thi qua bài tiểu luận này (cách bố cục, dẫn dắt vấn đề, cách nêu và chứng minh các luận điểm, sự kết hợp giữa nhận định, lí lẽ với dẫn chứng thực tế…).

Trả lời:

Những nét đặc sắc trong nghệ thuật lập luận của Nguyễn Đình Thi:

– Bố cục của văn bản chặt chẽ, hợp lí.

– Cách viết giàu hình ảnh với những dẫn chứng sinh động, hấp dẫn.

– Giọng văn thể hiện sự chân thành, niềm say sưa và nhiệt hứng dâng trào.


LUYỆN TẬP

Câu hỏi trang 17 sgk Ngữ văn 9 tập 2

Nêu một tác phẩm văn nghệ mà em yêu thích và phân tích ý nghĩa, tác động của tác phẩm ấy đối với mình.

Trả lời:

Mỗi tác phẩm văn nghệ đến với bạn đọc đều mang trong mình một sứ mệnh cao cả. Trong những tác phẩm văn học mà em từng đọc, để lại trong lòng em nhiều ấn tượng sâu sắc nhất là Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Nhà văn đã khiến em hiểu ra những nỗi đau của chiến tranh trong quá khứ đã gây nên bao đau thương cho những đồng bào vô tội, làm chảy bao nhiêu máu của người ra đi và nước mắt của người ở lại. Đặc biệt, tác phẩm gây xúc động bởi tình cảm cha con thiêng liêng của người lính. Truyện khiến em trân quý thêm tình cảm gia đình, trân quý bầu trời hòa bình của ngày hôm nay và thêm biết ơn quá khứ với những nỗi đau của cha ông đã đổi lấy cho chúng em cuộc sống của ngày hôm nay.

Hoặc:

Trong các tác phẩm đã đọc, em ấn tượng nhất với truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”, trích “Truyền kì mạn lục” PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả Nguyễn Dữ. Tác phẩm này có ý nghĩa rất sâu sắc và để lại nhiều suy ngẫm cho bản thân em. “Chuyện người con gái Nam Xương” kể về số phận bi kịch, oan ức của người con gái đẹp người đẹp nết là Vũ Nương. Nàng đã phải tự vẫn vì tính đa nghi, ghen tuông mù quáng của chồng. Tác phẩm này là tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến nam quyền hà khắc chà đạp lên số phận những người phụ nữ tội nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, tác giả đã thông qua câu chuyện này để thể hiện ước mơ của nhân dân ta về đạo lí, lẽ phải trong xã hội: người trong sạch, tốt đẹp sẽ được rửa oan, được đền đáp xứng đáng. Sau khi đọc câu chuyện này, em thấy xót thương cho số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến đồng thời nhận ra được một bài học đáng giá trong cuộc sống: trước khi phán xét một người khác, phải xem xét kĩ vấn đề từ nhiều phía, không mù quáng chủ quan để tránh gây ra tổn thương, nỗi đau cho người khác và cho chính bản thân mình.


CÁC BÀI VĂN HAY

Phân tích bài Tiếng nói của văn nghệ của Nguyễn Đình Thi

Tiếng nói của văn nghệ được Nguyễn Đình Thi viết vào năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc thời kháng chiến chống Pháp. Văn bản nghị luận này có bố cục chặt chẽ. Mọi lí lẽ và dẫn chứng PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả nêu ra đều tập trung và xoay quanh 3 luận điểm:

– Văn nghệ nảy sinh từ hiện thực cuộc sống, sáng tạo ra cái đẹp vì cuộc sống và con người.

– Văn nghệ là tiếng nói của tình cảm, của tâm hồn.

– Văn nghệ là tiếng nói của tư tưởng.

1. Văn nghệ phản ánh, thể hiện cuộc sống. Nghệ sĩ không tô, đồ hiện thực “mà muốn nói một điều gì mới mẻ”. Nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp, làm cho người đọc “rung động với cái đẹp”. Câu thơ Kiều nói về cỏ xanh non và hoa lê “trắng điểm” mùa xuân đã làm cho chúng ta “rung động với cảnh thiên nhiên mỗi mùa xuân lại như tái sinh, tươi, trẻ mũi và cảm thấy trong lòng ta có những sự sống tươi trẻ luôn luôn tái sinh ấy”.

Văn nghệ, những trang văn, câu thơ sáng tạo nên bao nhiêu “hình ảnh đẹp đẽ”, từ một ánh nắng, một lá cỏ, một tiếng chim, bao nhiêu bộ mặt con người, sự sống ở quanh ta, mà trước kia “ta chưa biết nhìn thấy”, bỗng làm ta “ngạc nhiên tìm ra ngay trong tâm hồn” mình. Mỗi một tác phẩm văn nghệ lớn “rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng” rất kì diệu, nó “làm thay đổi hẳn mắt ta nhìn, óc ta nghĩ”. Sứ mệnh của những nghệ sĩ lớn là đem tới cho cả thời đại họ “một cách sống của tâm hồn”.

Nguyễn Đình Thi đã chỉ rõ: sáng tạo ra cái đẹp là thiên chức của nhà nghệ sĩ; cái đẹp là đặc trưng của văn nghệ cái đẹp của thiên nhiên, cái đẹp của con người, cái đẹp của cuộc sống.

2. Chức năng của văn nghệ là vô cùng kì diệu

Tiếng nói của văn nghệ là tiếng nói của tâm hồn, tiếng nói tình cảm. Nó đem lại niềm khát khao sống, khát khao tự do cho những người tù chính trị trong các sở mật thám. Những câu thơ Kiều, những tiếng hát… đã làm cho những người bị giam cầm “vẫn buộc chặt lấy cuộc đời thường bên ngoài, có cây, có phố, cá ruộng, có người, có tình yêu, có những vui buồn khó nhọc hàng ngày; nói một cách khác, đó là sự sống.

Những người đàn bà nhà quê lam lũ ngày trước, suốt đời đầu tắt mặt tối, nhưng khi họ ru con hay hát ghẹo, một câu ca dao, một buổi xem chèo đã gieo vào tâm hồn họ “một ánh sáng, lay động những tình cảm, ý nghĩ khác thường”‘, làm cho những con người tăm tối nghèo khổ ấy “trong một buổi được cười hả dụ hay rỏ giấu một giọt nước mắt”. Đúng, tiếng nói của văn nghệ, “lời gửi của văn nghệ là sự sống

Nguyễn Đình Thi đã chỉ rõ “văn nghệ không thể sống xa lìa cuộc sống”. Chỗ đứng của văn nghệ “chính là chỗ giao nhau của tâm hồn con người với cuộc sống…”. Chỗ đứng của văn nghệ là “tình yêu ghét, niềm vui buồn, ý đẹp xấu” trong thiên nhiên và đời sống xã hội. Tác giả trích dẫn câu nói của Tôn-xtôi, văn hào Nga, để khẳng định kiến giải của mình: “Nghệ thuật là tiếng nói của tình cảm”.

3. Tiếng nói của văn nghệ còn là tiếng nói của tư tưởng

Nghệ thuật không thể nào thiếu tư tưởng. Tư tưởng trong văn nghệ “nay ra” từ trong cuộc sống, và “thấm” trong tất cả cuộc sống. Tư tưởng của văn nghệ mang tính đặc thù, “không lộ liễu và khô khan”. Một câu thơ, một trang truyện, một vở kịch, một bức tranh, một bản đàn, làm cho cảm xúc chúng ta “rung động”, rồi sẽ khơi dậy trong trí óc ta “những vấn đề suy nghĩ”. Tư tưởng trong nghệ thuật được thể hiện một cách tinh tế, “náu mình yên lặng”. Vì thế, “một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuông được”, nó níu giữ mãi trong lòng ta.

Văn nghệ là một loại tuyên truyền “rất đặc biệt”. Văn nghệ “truyền điện” thẳng vào tâm hồn ta. Nó làm cho con người “vui buồn nhiều hơn, yêu thương và căm hờn được nhiều hơn, tai mắt biết nhìn, biết nghe thêm tế nhị, sống được nhiều hơn”. Nghệ thuật “giải phóng được cho con người”, nghệ thuật “xây dựng đời sống tâm hồn cho xã hội”. Thật vậy, tư tưởng là nơi cao quý mà tiếng nói của văn nghệ hướng tới. Có điều “văn nghệ là một thứ tuyên truyền không tuyên truyền nhưng lại hiệu quả và sâu sắc hơn cả”. Văn nghệ là một thứ tuyên truyền bằng ngôn ngữ, hình tượng, cảm xúc…, nhưng nó “không tuyên truyền” bằng “tri thức trừu tượng”, nhà nghệ sĩ “không mà một cuộc thảo luận lộ liễu và khô khan với chúng ta về một vấn đề khoa học hay triết học”. Ví dụ, Truyện Lục Văn Tiên của Nguyễn Đình Chiểu đã lấy cuộc đời của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga để nói về trung, hiếu, tiết, hạnh, “một thứ tuyên truyền không tuyên truyền” là như vậy.

Sau hơn nửa thế kỉ, những ý kiến của Nguyễn Đinh Thi trong bài Tiếng nói của văn nghệ không còn xa lạ với nhiều người. Một cách viết tài hoa, có duyên, lí lẽ và lập luận khá sáng tỏ, chặt chẽ, giọng văn nhiệt tâm, nhiệt thành là sức hấp dẫn của bài tiểu luận này.


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Tiếng nói của văn nghệ sgk Ngữ văn 9 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các bạn làm bài Ngữ văn tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com