Soạn bài Hai chữ nước nhà sgk Ngữ văn 8 tập 1

Hướng dẫn Soạn Bài 17 sách giáo khoa Ngữ văn 8 tập một. Nội dung bài Soạn bài Hai chữ nước nhà sgk Ngữ văn 8 tập 1 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, cảm thụ, phân tích, thuyết minh,… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 8 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn 8.


VĂN BẢN

HAI CHỮ NƯỚC NHÀ

(Trích)

Chốn ải Bắc(1) mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu,
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom(2) phong cảnh như khêu bất bình.

Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.

Giống hồng lạc hoàng thiên(3) đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh(4) đổi thay,
Giời nam riêng một cõi này,
Anh hùng hiệp nữ(5) xưa nay kém gì!

Than vận nước gặp khi biến đổi,
Để quân Minh thừa hội(6) xâm lăng,
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!

Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!

Thảm vong quốc(7) kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ(8) nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!

Khói Nùng Lĩnh(9) như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ(10) đàn sau(11) đó mà?

Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.

Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao,
Bắc Nam bờ cõi phân mao,(12)
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây…

(Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên), Trần Tuấn Khải(*),

Tinh tuyển Văn học Việt Nam (1900 – 1945), tập 7, quyển 1,

NXB Khoa học xã hội, 2004)

Chú thích:

(*) Trần Tuấn Khải (1895 – 1983), bút hiệu Á Nam, quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông thường mượn những đề tài lịch sử hoặc những biểu tượng nghệ thuật bóng gió để bộc lộ nỗi đau mất nước, nỗi căm giận bọn cướp nước và bè lũ tay sai, nhằm khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào và bày tỏ khát vọng độc lập, tự do của mình. Thơ Trần Tuấn Khải vào những năm 20 của thế kỉ XX được truyền tụng rộng rãi, nổi tiếng nhất là những bài hát theo các làn điệu dân ca và những bài thơ theo các thể loại cổ truyền của dân tộc như lục bát, song thất lục bát. Tác phẩm chính: các tập thơ Duyên nợ phù sinh I, II (1921 và 1923), Bút quan hoài I, II (1924 và 1927), Với sơn hà I, II (1936 và 1949),…

Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu tập Bút quanh hoài I (1924), lấy đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta: Nguyễn Phi Khanh (cha Nguyễn Trãi) bị giặc bắt đem sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đi theo, nhưng tới biên giới phía Bắc, Nguyễn Phi Khanh đã khuyên con nên quay trở về để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước. Á Nam đã mượn lời người cha dặn dò con để gửi gắm tâm sự yêu nước của mình. Đoạn trích trên đây là phần mở đầu của bài thơ.

(1) Ải Bắc: biên giới phía Bắc giữa nước ta và Trung Quốc thời đó, nằm ở tỉnh Lạng Sơn.

(2) Đoái nom: ngoảnh lại mà trông.

(3) Hoàng thiên: trời, cách gọi trang trọng.

(4) Suy thịnh: suy yếu, thịnh vượng; ý nói trong quá trình lịch sử, đất nước có lúc hùng mạnh, có lúc suy yếu.

(5) Hiệp nữ: người phụ nữ làm việc nghĩa hiệp. Có bản chép là liệt nữ nghĩa là những người phụ nữ dám hi sinh vì nghĩa lớn.

(6) Thừa hội: lợi dụng cơ hội.

(7) Vong quốc: mất nước.

(8) Cơ đồ: cơ nghiệp lớn lao và vững chắc. Ở đây chỉ đất nước do cha ông gầy dựng bao đời.

(9) Nùng Linh: núi Nùng, còn gọi là Long Đỗ (rốn rồng). Tương truyền vua Lí Thái Tổ đã dựng chính điện trên núi này, hiện chỉ còn vết tích, nằm giữa thành cổ Hà Nội (không phải quả núi đất trong vườn Bách Thảo mà lâu nay vẫn gọi nhầm là núi Nùng. Núi này cùng với sông Hồng (còn gọi là sông Nhị) vẫn được xem là biểu tượng của Thăng Long, của đất nước ta xưa.

(10) Tế độ: cứu vớt chúng sinh ra khỏi bể khổ (theo giáo lí của đạo Phật).

(11) Đàn sau: thế hệ sau.

(12) Phân mao: chia ngọn cỏ. Sách xưa chép, những nơi giáp giới nước ta với Trung Quốc thì ngọn cỏ ngả ra hai bên, nghĩa là nửa đường bên kia thì ngọn cỏ ngả về phía Trung Quốc, mà bên này thì ngọn cỏ ngả về ta, cho nên gọi là phân mao.

Dưới đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Hai chữ nước nhà sgk Ngữ văn 8 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:


ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Bố cục: Gồm 3 phần:

– Phần 1 (8 câu thơ đầu): Cảnh sầu thảm đất Bắc trời Nam khi giặc xâm lược

– Phần 2 ( 20 câu thơ tiếp): Tội ác của giặc Minh và tiếng khóc xót thương vận nước.

– Phần 3 ( 8 câu cuối): Lời căn dặn của cha về trách nhiệm với đất nước

Nội dung chính: Qua đoạn trích Hai chữ nước nhà tác giả đã mượn một câu chuyện lịch sử có sức gợi cảm vô cùng lớn để bộc lộ được tình cảm mãnh liệt với đất nước khích lệ lòng yêu nước của đồng bào dân tộc


1. Câu 1 trang 162 sgk Ngữ văn 8 tập 1

Đọc diễn cảm đoạn thơ. Em có nhận xét gì về giọng điệu của đoạn thơ này? Thể thơ truyền thống song thất lục bát (mà em đã làm quen qua đoạn trích tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc học ở lớp 7) đã góp phần vào việc thể hiện giọng điệu đó như thế nào?

Trả lời:

Đoạn thơ mang giọng điệu buồn đau, thống thiết, lâm li. Thể thơ song thất lục bát phù hợp diễn tả tâm trạng. Hai câu bảy chữ trào dâng. Hai câu lục bát da diết, chậm mà xoáy sâu, nhức nhối.


2. Câu 2 trang 162 sgk Ngữ văn 8 tập 1

Đoạn thơ có thể chia làm ba phần: 8 câu đầu, 20 câu tiếp theo và 8 câu cuối. Em hãy tìm hiểu ý chính từng phần.

Trả lời:

– Phần 1 (8 câu đầu): Tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau đớn.

– Phần 2 (20 câu tiếp): Cảnh đất nước trong nỗi đau thương, tang tóc.

– Phần 3 (8 câu cuối): Lời than về thế bất lực của người cha và lời trao gửi cho con.


3. Câu 3 trang 162 sgk Ngữ văn 8 tập 1

Ở 8 câu thơ đầu, hãy tìm và phân tích những chi tiết nghệ thuật biểu hiện:

– Bối cảnh không gian.

– Hoàn cảnh éo le và tâm trạng của hai nhân vật cha và con.

Trong bối cảnh không gian và tâm trạng ấy, lời khuyên của người cha có ý nghĩa như thế nào?

Trả lời:

8 câu thơ đầu:

– Bối cảnh không gian: vùng ải Bắc, mây sầu, gió thảm, hổ thét, chim kêu… càng gợi lên nỗi buồn đau.

– Hoàn cảnh éo le và tâm trạng: cha bị áp giải sang Tàu, đi không trở lại, con muốn theo nhưng còn thù nhà nợ nước, cha đành khuyên con ở lại.

→ Lời khuyên của người cha khi ấy như những lời trăng trối thiêng liêng, thấm thía vào ý chí tư tưởng người con.


4. Câu 4 trang 162 sgk Ngữ văn 8 tập 1

Phân tích đoạn thơ thứ hai.

– Tâm sự yêu nước PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả thể hiện qua những tình cảm nào?

– Tìm hiểu sức gợi cảm của đoạn thơ (chú ý cách biểu hiện cảm xúc PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả và cả bối cảnh tâm trạng của người đương thời vào đầu những năm 20 của thế kỉ XX.

Trả lời:

Đoạn thơ thứ 2:

– Tình yêu nước PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả thể hiện qua lòng tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc; căm phẫn trước tội ác tàn bạo của kẻ thù; nỗi đau quê hương bị tàn phá.

– Sức gợi cảm của đoạn thơ: đoạn thơ sử dụng nhiều biện pháp tu từ, ẩn dụ đặc sắc, nhiều hình ảnh lớn lao, ngôn ngữ và giọng thơ thể hiện nỗi buồn sâu sắc.


5. Câu 5 trang 163 sgk Ngữ văn 8 tập 1

Trong phần cuối đoạn thơ, người cha nói đến cái thế bất lực của mình và sự nghiệp của tổ tông là để nhằm mục đích gì?

Trả lời:

Phần cuối đoạn thơ, người cha nói đến tình thế bất lực của mình (tuổi già sức yếu, lỡ sa cơ), nhắc nhớ sự nghiệp của tổ tông (vì nước gian lao) để kích thích cái chí gánh vác giang sơn, đặt niềm tin, trao gửi cho con trả nợ nước, báo thù nhà.


LUYỆN TẬP

Câu hỏi trang 163 sgk Ngữ văn 8 tập 1

Người ta nói thơ Trần Tuấn Khải vẫn sử dụng nhiều hình ảnh, từ ngữ có tính chất ước lệ, sáo mòn. Hãy tìm trong đoạn thơ này một số hình ảnh, từ ngữ như thế và cho biết tại sao nó vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ.

Trả lời:

Người ta nói thơ Trần Tuấn Khải vẫn sử dụng nhiều hình ảnh, từ ngữ có tính sáo mòn ước lệ. Hãy tìm trong đoạn thơ này một số hình ảnh, từ ngữ như thế và cho biết tại sao nó có sức truyền cảm mạnh mẽ.

Những hình ảnh mang tính ước lệ, sáo mòn: mây sầu, gió thảm, hổ thét chim kêu, máu nóng, hồn nước, đất khóc, giời than, thân lươn…

⟹ Có sức lay động vì gợi đúng thực trạng đất nước buổi lâm nguy. Nhấn mạnh tâm trạng bi tráng của nhân vật lịch sử, khích lệ tinh thần yêu nước.\


CÁC BÀI VĂN HAY

1. Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải

Bài tham khảo 1:

Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lòng yêu nước, nỗi đau mất nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào. Ở những năm đầu thế kỉ XX, ông là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu với giọng điệu bi tráng, thống thiết. Hai chữ nước nhà là tác phẩm tiêu biểu của ông. Dưới hình thức song thất lục bát, bài thơ Hai chữ nước nhà để lại một ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng người đọc. “Tâm trạng xã hội khoảng 1926 uất ức, bi tráng, điệu lục bát du dương êm hòa không đủ, mà đòi hỏi một điệu thơ song thất lục bát để toát, để thoát, xé nỗi niềm u uất đè nặng tâm hồn” (Xuân Diệu).

Cuộc chia tay cảm động giữa hai cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan trong bài thơ là những khoảnh khắc đặc biệt, có sức lay động lớn đã được Trần Tuấn Khải sử dụng để kí thác tâm trạng, cảm xúc hiện tại, thực của mình. Lời trăng trối của người cha đối với con khi vĩnh biệt trĩu nặng ân tình, nhuốm đậm những đau thương. Tiếng lòng sầu thảm, ai oán kia khi thì trùng điệp dồn nén, khi thì da diết xót xa. Tác giả quả là đã không uổng công chút nào khi lựa chọn âm điệu phong phú của thể thơ song thất lục bát để dồn tả những tiếng lòng ấy.

Có thể hình dung bố cục của văn bản trích Hai chữ nước nhà thành ba phần. Phần 1 (8 câu thơ đầu): diễn tả tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau lòng; phần 2 (20 câu tiếp): phác họa tình cảnh đau thương tang tóc của đất nước; phần 3 (8 câu thơ còn lại): xót phận mình bất lực, người cha trao gửi cho con tâm nguyện cứu nước. Đi vào tìm hiểu từng phần ta sẽ cảm nhận được mạch xúc cảm thống thiết, chân thành của bài thơ.

Ở 8 câu thơ đầu, tác giả gợi ra bối cảnh không gian biên ải ảm đạm, hun hút và tâm trạng của nhân vật trữ tình. Bốn câu đầu là không gian chia li:

Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.

Trong cuộc ra đi không có ngày trở lại thì biên ải này chính là điểm mà Nguyễn Phi Khanh vĩnh biệt tổ quốc, quê hương, vĩnh biệt người con thân yêu của mình. Tâm trạng của kẻ sắp ra đi vĩnh viễn phủ lên khung cảnh vốn đã heo hút, ảm đạm một màu tang tóc, thê lương. Tâm sầu, cảnh sầu cũ khơi gợi lẫn nhau thành một mối sầu thảm tái tê, u hoài dằng dặc. Đoạn thơ này tạo ra không khí chung cho toàn bài, không khí thời cuộc năm xưa (thời Phi Khanh – Nguyễn Trãi) và cũng là không khí của xã hội Việt Nam những năm 20 thế kỉ XX. Bốn câu tiếp đầm đìa máu lệ:

Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tài lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.

Giờ phút này đây, cha sẽ ra đi mà chẳng bao giờ về nữa. Đất nước lầm than, cha con li biệt, tình đất nước lớn lao hòa trong tình phụ tử sâu nặng Nguyễn Phi Khanh bị giải sang Tàu. Để làm tròn đạo hiếu với cha già, Nguyễn Trãi muốn đi theo để phụng dưỡng. Nhưng Phi Khanh gạt tình riêng, dằn lòng khuyên con trở lại để trả thù nhà, đền nợ nước. Người sắp ra đi vĩnh viễn thường nói những lời gan ruột, những lời mà người còn sống phải khắc cốt ghi xương.

Tấm lòng đối với đất nước của người cha thật cảm động. Ở những câu thơ tiếp theo trong phần 2 tác giả đã hóa thân vào người trong cuộc li tan để phác ra tình cảnh đau thương của đất nước lầm than nô lệ. Trong đó tác giả sử dụng cả tự sự và miêu tả xen lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập trong thảm họa “xương rừng máu sông”; uất hận sầu đau đang ngùn ngụt ngút trời:

Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đổ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!

Nỗi đau ở đây là một nỗi đau lớn, vượt lên nỗi đau riêng để thành nỗi đau cao cả, thiêng liêng của cả đất nước, giống nòi. Sự lớn lao ấy được diễn tả bằng hàng loạt các hình ảnh mang tầm vóc vĩ mô: vong quốc, cơ đồ, đất khóc, giời than, nòi giống. Dòng xúc cảm mãnh liệt thống thiết biểu hiện qua những từ ngữ diễn tả tình cảm ở cung bậc mạnh, bi thiết: kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc than, thương tâm. Mỗi dòng thơ là một tiếng kêu than đứt ruột, đầy những hờn căm, bi phẫn. Chẳng đủ nước mắt để khóc than cho những đớn đau đang tràn ngập giang sơn, đắng cay đành nuốt sâu trong dạ, người cha nhắn nhủ tâm huyết lại cho con:

Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…

Nói phận mình bất lực để ủy thác tất cả cho con, cha “tuổi già sức yếu”, lại gặp cơn nguy nan, đành uất hận, tủi hờn mà bó tay. Khơi gợi lại truyền thống kiên cường bất khuất của tổ tiên, người cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình ngọn lửa căm thù xâm lăng, ngọn lửa ý chí quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà và là cả niềm hi vọng lớn vào con trước khi đi mãi. Lời trao gửi nặng tựa Thái sơn. Nước mất thì nhà cũng tan, thù nhà chỉ có thể trả được khi thù nước đã rửa sạch. Nguyễn Phi Khanh muốn con mình biến nỗi đau mất cha thành nỗi hận mất nước.

Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền thống văn học. Trần Tuấn Khải đã rất thành công khi lựa chọn chuyện chia li giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi để gửi gắm tâm sự, nỗi đau mất nước nhằm khơi gợi tinh thần yêu nước thương nòi khi non sông đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân. Bằng tình cảm sâu đậm, mãnh liệt, với một giọng điệu thống thiết, thán ca, tác giả của Hai chữ nước nhà đã thực hiện bổn phận, sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ yêu nước. Thơ ông thôi thúc lòng người, khích lệ mọi người tranh đấu cho giang sơn độc lập, tự do.

Bài tham khảo 2:

Trần Tuấn Khải (1895 – 1983), bút hiệu Á Nam quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Là một nhà Nho tiến bộ, ông thường mượn đề tài lịch sử hoặc những biểu tượng nghệ thuật bóng gió để kín đáo bộc lộ nỗi đau mất nước, thái độ căm giận bọn cướp nước cùng bè lũ tay sai và bày tỏ khát vọng độc lập, tự do của mình, đồng thời động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của đồng bào. Thơ Trần Tuấn Khải được truyền tụng rộng rãi trong giai đoạn đầu thế kỉ XX, nổi tiếng nhất là những bài hát theo làn điệu dân ca như Gánh nước đêm, Anh đi anh nhớ, Hai chữ nước nhà được viết dưới hình thức thơ lục bát và song thất lục bát.

Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu tập Bút quan hoài I, quyển thứ nhất, sáng tác vào năm 1924. Mượn đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh, một viên quan tài giỏi của triều đình phong kiến đương thời bị giặc bắt đem sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi định đi theo để chăm sóc cha nhưng tới biên giới phía Bắc, Nguyễn Phi Khanh đã khuyên con nên quay về để mưu tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.

Đoạn trích trong sách giáo khoa gồm 36 câu là phần mở đầu của bài thơ dài 101 câu, nội dung kể lại cuộc chia tay đầy ý nghĩa của cha con Nguyễn Trãi đã được ghi vào lịch sử chống ngoại xâm đau thương và oanh liệt của dân tộc. Trong cảnh ngộ đau thương, Nguyễn Phi Khanh gạt lệ khuyên con trai bao điều hữu ích. Đất nước thịnh suy là lẽ thường tình. Làm trai phải biết nuốt hận, chờ thời cơ để trả nợ nước, báo thù nhà. Người cha già lực bất tòng tâm, đành gửi trọn niềm tin vào con trai, mong con nối chí lớn của mình, tiếp tục sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng đất nước.

Tại sao tác giả lại lấy Hai chữ nước nhà làm tựa đề của bài thơ? Tựa đề đó gắn với tư tưởng chung của bài thơ như thế nào?

Nước và nhà vốn là hai khái niệm, nhưng trong hoàn cảnh riêng của hai cha con Nguyễn Trãi thời xưa (thế kỉ XV) và hoàn cảnh chung của đất nước ta vào những năm đầu thế kỉ XX thì hai khái niệm đó lại có mối liên quan không thể tách rời. Nước mất thì nhà tan. Thù nhà chỉ có thể trả được khi thù nước đã rửa. Bởi thế Nguyễn Phi Khanh muốn nhắc nhở con là hãy lấy nước làm nhà, lấy cái nghĩa với nước thay cho chữ hiếu với cha, như thế là vẹn cả đôi đường.

Sức truyền cảm mạnh mẽ của bài thơ toát lên từ nội dung yêu nước. Tác giả đã tái hiện khá đầy đủ khung cảnh buổi chia li và tâm trạng đau thương, khắc khoải cua hai cha con Nguyễn trãi. Điều đó giống như “gảy đúng vào dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người”. (Xuân Diệu).

Có thể coi những lời khuyên của Nguyễn Phi Khanh trong bối cảnh nước mất, nhà tan là lời trăn trối của cha với con trong giờ vĩnh biệt. Các câu cảm thán đã tạo nên âm hưởng lâm li, thống thiết. Thể thơ song thất lục bát rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng nặng trĩu buồn thương của nhân vật.

Nội dung bài thơ không chỉ đơn thuần mang tính chất hoài cổ mà nó chất chứa tâm sự phẫn uất, đau thương PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả trước tình cảnh nước mất, nhà tan trong hiện tại. Vì vậy, nó làm rung động lòng người và được truyền tụng rộng rãi, đặc biệt là trong tầng lớp trí thức, thanh niên và học sinh yêu nước.

Bốn câu thơ đầu là khung cảnh cuộc chia li:

Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.

Cuộc chia tay giữa hai cha con diễn ra ở biên ải phía Bắc vốn là nơi ảm đạm, heo hút, bốn bề rừng núi trập trùng, mây sâu, gió thảm, hổ thốt, chim kêu… Đối với cuộc ra đi không có ngày trở lại của Nguyễn Phi Khanh thì đây tựa điểm dừng chân cuối cùng để rồi vĩnh viễn xa lìa Tổ quốc, quê hương và những người ruột thịt. Tấm trạng đau đớn của kẻ bị lưu đày biệt xứ đã phủ lên cảnh vật một màu tang tóc, thê lương và ngược lại, cảnh vật ấy càng như giục Cơn sầu trong lòng người vốn nặng tình non nước.

Tình cảm yêu nước PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả đã biến những hình ảnh ước lệ và từ ngữ sáo mòn trong thơ cổ điển thành chân thực và cảm động. Dường như tác giả được trực tiếp chứng kiến cuộc chia tay đau đớn ấy và hóa thân vào cả kẻ ở lẫn người đi để thấu hiểu, đồng cảm với tâm trạng nhân vật, từ đó viết nên những dòng thơ máu hòa nước mắt:

Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay.
Giời Nam riêng một cõi này,
Anh hùng hiệp hữ xưa nay kém gì

Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi thật éo le: cha bị giặc bắt giải sang Tàu, không mong ngày trở lại; con muốn đi theo để phụng dưỡng cha già cho trọn đạo hiếu, nhưng cha dằn lòng khuyên con trở lại để mưu tính việc đền nợ nước, trả thù nhà. Đối với cả hai cha con, nghĩa nước, tình nhà đều thiêng liêng sâu đậm.

Trước cảnh nước mất, nhà tan, cha con li biệt, nỗi đau đớn xót xa trong lòng họ càng tăng lên gấp bội.

Nguyễn Phi Khanh khuyên con những điều tâm huyết. Trước hết, ông nhắc nhở con về dòng giống cao quý của dân tộc Việt : Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định. Sau đó phân tích cho con hiểu về quy luật của lịch sử là các triều đại phong kiến ắt phải trải qua các giai đoạn hưng thịnh và suy vong nhưng gương anh hùng, hiệp nữ cứu nước thì xưa nay không hiếm và không kém gì những gương sáng trong lịch sử phong kiến phương Bắc. Để bảo vệ đất nước, người phụ nữ còn làm nghĩa hiệp, huống chi các bậc nam nhi?!

Nguyễn Phi Khanh lấy bốn chữ Giang sơn làm trọng để giải thích cho Nguyễn Trãi – người con mà ông yêu quý và tin tưởng nhất. Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, lời khuyên của người cha có ý nghĩa như một lời trăng trối. Nó thiêng liêng, xúc động vô cùng, khiến người con phải khắc cốt ghi xương.

Tác giả hóa thân vào Nguyễn Phi Khanh, người bị biệt xứ lưu đày, tâm tư trĩu nặng nỗi lo đời để miêu tả tình hình bi thảm của đất nước và lên án tội ác trời không dung đất không tha của quân xâm lược:

Thân vận nước gặp khi biến đổi,
Để quân Minh thừa hội xâm lăng,
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!

Những câu thơ này xoáy mạnh vào nỗi nhục mất nước trong tâm can người đọc đương thời. Giặc Pháp bây giờ nào có khác chi giặc Minh thuở ấy, cũng đang gây ra bao cảnh đau thương tang tóc trên đất nước ta.

Xen giữa những dòng tâm tư đắng cay, chua xót là những lời cảm thán ngậm ngùi, bi thương:

Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!

Những động từ, tính từ có sức gợi cảm cao như : kể sao xiết kể, xé tâm can, thương tâm, lầm than đã phản ánh mức độ bi thảm của thực trạng mất nước lúc bấy giờ. Gây xúc động nhất là hình ảnh: Ngậm ngùi đất khóc giời than, quả là “tình cảnh cảm sầu, kể sao cho xiết” đúng như nhận định của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.

Tâm sự đau đớn của Nguyễn Phi Khanh được thể hiện trong bài thơ là nỗi đau lớn lao, vượt lên số phận cá nhân, trở thành nỗi đau non nước. Mỗi lời nhắn nhủ con là một tiếng than, tiếng nấc nghẹn ngào, cay đắng. Giọng thơ bi phẫn vốn là sở trường của Trần Tuấn Khải rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng khắc khoải, buồn thương của nhần vật Nguyễn Phi Khanh. Do đó bài thơ có sức lay động lòng người, nhất là đối với những tâm hồn đồng điệu đương thời.

Trong những giây phút cuối cùng được sống bên con, Nguyễn Phi Khanh đã đặt ra cho Nguyễn Trãi một câu hỏi lớn, cũng là nỗi niềm băn khoăn không lúc nào nguôi trong lòng ông:

Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà ?

Tác giả mượn hình ảnh khói núi Nùng, sóng sông Nhị (sông Hồng còn gọi là Nhị Hà) biểu tượng của kinh đô nước Đại Việt để thể hiện mức độ căm giận quân xâm lược của mình, cơ nghiệp lớn lao vững chắc của ông cha, tổ tiên gây dựng tự bao đời, nay con cháu há lại để rơi vào tay giặc dữ?

Nói đến tình cảnh “lực bất tòng tâm” của Nguyễn Phi Khanh, ngòi bút tác giả như đẫm nước mắt:

Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…

Tất cả những lời nói trên của Nguyễn Phi Khanh đều là lời gan ruột, tâm huyết trao lại cho con. Gánh nặng sơn hà, xã tắc đã uỷ thác cho thế hệ sau với tất cả niềm tin tưởng và hi vọng. Lời khuyên của cha kích thích, hun đúc chí nam nhi của con, động viên con hãy tỏ ra xứng đáng với sự nghiệp oanh liệt của tổ tông đã bao phen vì nước.

Hai chữ nước nhà là bài thơ nổi tiếng của Á Nam Trần Tuấn Khải. Tác giả tái hiện cuộc chia tay giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà tan để thông qua đó bộc lộ cảm xúc của mình, đồng thời khích lệ lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào ta. Tình cảm sâu đậm, mãnh liệt đối với nước nhà PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả đã tạo nên sức sống lâu dài cho bài thơ.

Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét rất đúng: “Hai chữ nước nhà được xem là bài thơ hay nhất đã tổng hợp các mô típ văn thơ yêu nước của Á Nam, từ giọng bi tráng đến giọng mỉa mai, từ chất căm hờn đến lời mắng mỏ, từ sự dỗi tức nguyền rủa bọn Việt gian chết tiệt đến nỗi đau thương ôm lấy bà mẹ giang san”.


2. Cảm nhận bài thơ Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải

Những năm 20 của thế kỉ trước, những bài hát theo các làn điệu dân ca. Những bài thơ lục bát, song thất lục bát, thất ngôn… được truyền bá sâu rộng trong dân gian. Những đề tài lịch sử, những gương anh hùng được Trần Tuấn Khải nói đến có giá trị khích lệ tinh thần yêu nước, nói lên nỗi đau nhục nô lệ lầm than, bày tỏ khát vọng độc lập tự do không bao giờ nguôi.

Đoạn trích bài thơ “Hai chữ nước nhà” gồm có 36 câu thơ song thất lục bát được Trần Tuấn Khải sáng tác vào năm 1926, in trong tập “Bút quan hoài”. Trong lời đề từ, nhà thơ nói rõ cảm hứng của mình là ”Nghĩ lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu”. Qua đó, ta cảm nhận được “Hai chữ nước nhà” là bài thơ mượn đề tài lịch sử để thể hiện cảm hứng yêu nước, kích thích lòng yêu nước cho quốc dân đồng bào khi đang làm thân trâu ngựa che thực dân Pháp. Lời đề từ đưa chúng ta trở về những năm tháng đau thương của đất nước và dân tộc. Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta, dìm đất nước ta vào máu lửa, chúng đã bắt cha con Hồ Quý Ly và một số đại thần, trong đó có Nguyền Phi Khanh giải về Tàu. Có thể nói bài thơ là lời cha dặn con về “Hai chữ nước nhà”, về mối thù nhà nợ nước.

1. Phần đầu, tác giả gợi lên cảnh đất nước đau thương (dưới ách thống trị của giặc Minh tàn bạo. Những hình ảnh nhân hóa rất gợi: ”mây sầu ảm đạm”, ”gió thảm đìu hiu”, “hổ thét chim kêu”… Cảnh vật, núi sông như mang nỗi đau của con người. Cả một không gian rộng lớn từ “chốn ải Bắc” đến “cõi giời Nam” và “khắp bốn bể’ đều thấm máu và nước mắt của hàng triệu con người:

“Chốn ải Bắc, mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam, gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu…”

Trước thảm cảnh “vong quốc”, người cha già trên con đường đi đày ngốn ngang nỗi niềm. Các chữ, các hình ảnh như: “bất bình”, “hạt máu nóng thấm quanh hồn nước”, “tầm tã châu rơi” đã nói lên một cách cảm động “di hận” của người anh hùng thất thế, một bi kịch lịch sử của cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi. Câu thơ như thấm đầy lệ, giọng thơ thiết tha não nùng:

‘Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên”.

Nguyễn Trãi có câu thơ chữ Hán: “Anh hùng di hận kỉ thiên niên”, nghĩa là người anh hùng để lại mối hận đến nghìn năm. Phán đầu bài “Hai chữ nước nhà”, Trần Tuấn Khải đã nói lên thật xúc dộng nỗi đau nước mất nhà tan, nỗi “di hận” của người anh hùng thất thế Nguyễn Phi Khanh.

2. Phần thứ hai là những lời thống thiết cha dặn con.

Nhớ “Hai chữ nước nhà” là nhớ về dòng giống Hồng Lạc, là nhớ về lịch sử trường tồn “mấy ngàn năm” của dân tộc, là nhớ giang sơn “giời Nam riêng một cõi này”, là nhớ đến bao ”anh hùng hiệp nữ” như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn… Nhớ “Hai chữ nước nhà” là để nâng cao lòng tự tôn, tự hào dân tộc:

“Giang Nam riêng một cõi này,
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!”.

Giọng thơ trở nên bừng bừng căm giận khi cha dặn con hãy khắc cốt ghi tâm những tội ác tày trời của quân “cuồng Minh”:

“Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn (…)
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu”…

Những từ ngữ hình ảnh: “khói lửa bừng bừng”, “xương rừng máu sông”,

“thành tung quách vỡ”, “đất khóc giời than”, “xây khói uất”, “vật cơn sầu”… tuy mang tính ước lệ, nhưng trong văn cảnh vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ vì đã gợi lên bao nỗi đau nhục mất nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược. Đặc biệt đoạn thơ của Trần Tuấn Khải đã đem đến liên tưởng cho người đọc về “Bình Ngô đại cáo”, đoạn nói về tội ác giặc Minh tàn bạo:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời, lừa dân, đã muôn nghìn kế,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không dầm núi…”.

Người cha bị cùm trói, bị giải sang Tàu, nhìn cơ đồ giang san mà đau đớn như “xé tâm can”. Càng đau đớn, càng lo lắng cho vận mệnh của đất nước, tương lai của giống nòi. Câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tu từ cất lên vô cùng thống thiết:

“Con ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?”.

Vần thơ như chứa đầy lệ, có lời than, có tiếng nức nở. Lời cha dặn con cũng là lời non nước.

3. Tám câu trong phần cuối đoạn trích vừa nói lên bi kịch của người cha: “tuổi già sức yếu”, “sa cơ đành chịu bó tay”…, vừa trông cậy vào con để trả thù nhà, rửa hận nước: “Giang sơn gánh vác sau này cậy con…”. Cha thiết tha dặn con lần cuối: hãy “vì nước”, hãy “nhớ tổ tông”, hãy đem máu đào mà hi sinh chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Đó là “Hai chữ nước nhà”, đó là những lời huyết lệ:

“Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phen vì nước gian lao.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây…”.

“Hai chữ nước nhà’ là một bài thơ hay và cảm động. Nó nói lên một cách hàm súc, cô đọng nỗi đau, nỗi nhục mất nước của dân tộc ta trong thế kỉ XV và căm thù đối với giặc Minh cướp nước. Sâu xa hơn, bài thơ đã khích lệ lòng yêu nước của đồng bào, khêu gợi khát vọng độc lập tự do của dân tộc khi đang làm thân trâu ngựa cho thực dân Pháp. “Hai chữ nước nhà” vừa là lời cha dặn con, vừa là lời Tổ quốc kêu gọi.

Từ ngôn ngữ, hình ảnh đến giọng thơ, vần thơ, từ nhũng cặp câu thất ngôn đối nhau đến những hình ảnh nhân hóa, tượng trưng ước lệ đều cho thấy một bút pháp nghệ thuật rất già dặn, giàu bản sắc của Á Nam.

Trong thời Pháp thuộc, bài thơ “Hai chữ nước nhà” đã làm lay động hàng triệu con người. Ngày nay, nó vẫn làm ta xúc động.


3. Phân tích nội dung và nghệ thuật thể hiện của đoạn trích Hai chữ nước nhà

Đoạn trích gồm 36 câu thơ thể song thất lục bát. Tác giả đã mượn đề tài có thật trong lịch sử là Nguyễn Phi Khanh cha của Nguyền Trãi bị quân Minh bắt đưa về Trung Quốc. Cuộc chia tay đẫm lệ giữa hai cha con ở “Chốn ải Bắc” – Một địa phận thuộc tỉnh Lạng Sơn của nước ta giáp với Trung Quốc.

Đoạn trích có thể chia làm ba phần:

Phần đầu: Có 8 câu tác giả gợi lên cảnh chia li ở nơi biên giới. Cảnh chia tay giữa hai cha con Nguyễn Phi Khanh – Nguyễn Trãi diễn ra rất ảm đạm, thê lương!

Cha đã già phải đem “chút thân tàn lần bước dặm khơi” còn con thì ở lại với non nước trong cảnh “cõi trời Nam gió thổi đìu hiu”.

Trong thảm cảnh ấy lòng người cha uất hận bất bình dặn lại con:

Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.

Trần Tuấn Khải đã mượn lời nhân vật lịch sử nói lên nỗi đau “nước mất nhà tan. Dĩ nhiên trong hai câu thơ trên còn gửi gắm vào đó một niềm tin bởi vì có niềm tin mới khuyên bảo.

Phần thứ hai: gồm 20 câu tác giả gợi lại qua lời người cha về giòng giống Lạc Hồng, về lịch sử trường tồn mấy ngàn năm của dân tộc, như một thiên định:

Giang Nam riêng một cõi này,
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!

Lời đặn của người cha như bừng bừng căm giận. Giọng nói trở nên khắc cốt ghi tâm những tội ác tày trời của quân xầm lược Minh. Trên mảnh đất tuy có lúc suy thịnh đổi thay nhưng vẫn có những “Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!” Rõ ràng người cha đã kích động lòng tự hào, tự tôn dân tộc để người con cầm lấy bút mà ghi tội ác của giặc:

Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bồ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn…
Và hãy cầm lấy gươm để thanh toán nỗi đau căm uất:
Khói Nùng Lĩnh như xây khói uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Can ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đùn sau đó mà còn

Lời dặn dò, khuyên nhà thơ đẫm lệ, nức nở trong đau thương nhưng đã khơi dậy ý chí chiến đấu, quyết tâm giữ lấy giang sơn.

Phần thứ ba: gồm 8 câu, tác giả đã để lại cho người cha than thở, nhưng chủ yếu là nói lên niềm tin thiết tha thấm sâu vào trái tim khối óc người con:

Giang sơn gánh vác sau này cậy con.

Hai chữ nước nhà là bài thơ hay, rất gợi cảm. Ý nghĩa sâu xa của nó còn là kích động lòng căm thù với bọn xâm lược Pháp, nói lên khát vọng tự do của nhân dân Việt Nam.

Ngôn ngữ và hình ảnh trong thơ rất trong sáng giản dị, nhưng nhà thơ đã dùng những cặp câu thơ thất ngôn đối nhau và sử dụng những hình ảnh nhân hoá rất đậm nét. Vì vậy em thấy ở Á Nam Trần Tuấn Khải một bút pháp nghệ thuật có vỏ dân dã nhưng rất độc đáo. Vì vậy ngay từ thời Pháp thuộc bài thơ đã làm cho lòng người phải xúc động không nguôi.


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Hai chữ nước nhà sgk Ngữ văn 8 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các bạn làm bài Ngữ văn tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com