Trả lời câu hỏi 1 2 bài 25 trang 124 sgk Lịch sử 8

Hướng dẫn trả lời câu hỏi Bài 25: Kháng chiến lan rộng ra toàn quốc (1873 – 1884), sách giáo khoa Lịch sử lớp 8. Nội dung trả lời câu hỏi 1 2 bài 25 trang 124 sgk Lịch sử 8 bao gồm đầy đủ kiến thức lý thuyết và bài tập có trong SGK để giúp các em học tốt môn lịch sử lớp 8.


Lý thuyết

I. Thực dân Pháp đánh Bắc Kì lần thứ nhất. Cuộc kháng chiến ở Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Kì

1. Tình hình Việt Nam trước khi Pháp đánh chiếm Bắc Kì

Ngay sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kì, thực dân Pháp đã bắt tay ngay vào việc thiết lập bộ máy thống trị và tiến hành bóc lột về kinh tế nhằm biến nơi đây thành bàn đạp để đánh chiếm Cam-pu-chia, rồi chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kì.

Pháp xây dựng bộ máy cai trị có tính chất quân sự từ trên xuống dưới ; đẩy mạnh Chính sách bóc lột bằng tô thuế, cướp đoạt ruộng đất của nông dân, ra sức vơ vét lúa gạo để xuất khẩu, mở trường đào tạo tay sai; xuất bản báo chí nhằm tuyên truyền cho kế hoạch xâm lược sắp tới.

Trong khi đó, triều đình Huế vẫn tiếp tục thi hành các chính sách đối nội, đối ngoại lỗi thời.

2. Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất (1873)

Lợi dụng việc triều đình Huế nhờ đem tàu ra vùng biển Hạ Long đánh dẹp cướp biển và do nhiều nguồn tin, chủ yếu của bọn gián điệp đội lốt giáo sĩ cung cấp, thực dân Pháp đã nắm được tình hình Bắc Kì. Từ cuối năm 1872, chúng cho tên lái buôn Đuy-puy vào gây rối ở Hà Nội. Tiếp đó, lấy cớ giải quyết vụ Đuy-puy, hơn 200 quân Pháp do Gác-ni-ê chỉ huy từ Sài Gòn kéo ra Bắc.

Sáng ngày 20 – 11 – 1873, quán Pháp nổ súng đánh thành Hà Nội.

7000 quân triều đình, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, cố gắng cản giặc nhưng thất bại. Buổi trưa, thành mất. Nguyễn Tri Phương bị thương. Bị giặc bắt, ông nhịn ăn mà chết.

Trong vòng chưa đầy một tháng, Pháp cho quân toả đi chiếm Hải Dương, Hưng Yên, Phủ Lí, Ninh Bình, Nam Định.

3. Kháng chiến ở Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Kì (1873 – 1874)

Ngay khi quân Pháp kéo đến Hà Nội, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên kháng chiến.

Thấy lực lượng của địch ở Hà Nội tương đối yếu, quân ta khép chặt vòng vây. Ngày 21 – 12 – 1873, khi quân Pháp đánh ra cầu Giấy, chúng đã bị đội quân của Hoàng Tá Viêm phối hợp với quân Cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc phục kích. Gác-ni-ê cùng nhiều sĩ quan thực dân và binh lính bị giết tại trận.

Chiến thắng cầu Giấy khiến quân Pháp hoang mang, còn quân dân ta thì phấn khởi, càng hăng hái đánh giặc.

Giữa lúc đó, triều đình Huế lại kí với thực dân Pháp Hiệp ước Giáp Tuất (15 – 3 – 1874). Theo đó, Pháp sẽ rút quân khỏi Bắc Kì, còn triều đình thì chính thức thừa nhận sáu tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp.

Hiệp ước năm Giáp Tuất đã làm mất một phần quan trọng chủ quyền lãnh thổ, ngoại giao và thương mại của Việt Nam.

II. Thực dân Pháp đánh Bắc Kì lần thứ hai. Nhân dân Bắc Kì tiếp tục kháng chiến trong những năm 1882 – 1884

1. Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ hai (1882)

Hiệp ước Giáp Tuất (1874) đã gây nên làn sóng phản đối mạnh mẽ trong dân chúng cả nước.

Nền kinh tế đất nước ngày càng kiệt quệ. Nhân dân đói khổ. Giặc cướp nổi lên ở khắp nơi, có lúc triều đình đã phải cầu cứu cả quân Pháp và quân Thanh đánh dẹp. Các đề nghị cải cách, duy tân đều bị khước từ. Tình hình rối loạn cực độ.

Trong khi đó, tư bản Pháp đang phát triển mạnh, rất cần nguồn tài nguyên khoáng sản ở Bắc Kì nên chúng quyết tâm xâm chiếm bằng được.

Lấy cớ triều đình Huế vi phạm Hiệp ước 1874, tiếp tục giao thiệp với nhà Thanh mà không hỏi ý kiến của Pháp, ngày 3 – 4 – 1882 quân Pháp, do viên đại tá Ri-vi-e chỉ huy, đã đổ bộ lên Hà Nội.

Ngày 25 – 4 – 1882. Ri-vi-e gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Hoàng Diệu, đòi nộp khí giới và giao thành không điều kiện.

Không đợi trả lời. quân Pháp nổ súng tấn công. Quân ta anh dũng chống trả, nhưng chỉ cầm cự được gần một buổi sáng. Đến trưa, thành mất. Hoàng Diệu thắt cổ tự tử để bảo toàn khí tiết.

Triều đình Huế vội vàng cầu cứu quân Thanh và cử người ra Hà Nội thương thuyết với Pháp ; đồng thời ra lệnh cho quân ta phải rút lên mạn ngược. Thừa dịp, quân Thanh ồ ạt kéo sang nước ta, đóng ở nhiều nơi. Trong khi đó, quân Pháp nhanh chóng toả đi chiếm Hòn Gai, Nam Định và các tỉnh khác thuộc đồng bằng Bắc Kì.

2. Nhân dân Bắc Kì tiếp tục kháng Pháp

Khi quân Pháp tiến đánh Bắc Kì lần thứ hai, nhân dân đã tích cực phối hợp với quan quân triều đình kháng chiến, ở Hà Nội, khi quân Pháp nổ súng đánh thành, nhân dân tự tay đốt nhà, tạo thành bức tường lửa chặn giặc. Hàng nghìn người dân tụ tập thành đội ngũ. gươm giáo chỉnh tề tại đình Quảng Văn (Cửa Nam) chuẩn bị kéo vào thành đánh giặc, nhưng chưa kịp đi thì thành đã mất. Cuộc chiến đấu trong lòng địch diễn ra sau đó vô cùng quả cảm.

Tại các địa phương, nhân dân tích cực đắp đập, cắm kè trên sông, làm hầm chông, cạm bẫy v.v… chống Pháp.

Ngày 19-5-1883. hơn 500 tên địch kéo ra Cầu Giấy đã lọt vào trận địa mai phục của ta. Quân Cờ đen lại phối hợp với quân của Hoàng Tá Viêm đổ ra đánh. Nhiều sĩ quan và lính Pháp bị giết, trong đó có Ri-vi-e.

Chiến thắng cầu Giấy lần thứ hai càng làm cho quân Pháp thêm hoang mang, dao động. Chúng đã toan bỏ chạy nhưng triều đình Huế lại chủ trương thương lượng với Pháp, hi vọng địch rút quân (như năm 1873). Song tình hình lúc này đã khác trước. Sau khi có thêm viện binh, cuối tháng 7 – 1883 nhân cơ hội vua Tự Đức mới qua đời, nội bộ triều đình đang lục đục, chủ nghĩa tư bản Pháp trên đà phát triển, thực dân Pháp quyết định đem quân tấn công thẳng vào Thuận An, cửa ngõ kinh thành Huế.

3. Hiệp ước Pa-tơ-nốt. Nhà nước phong kiến Việt Nam sụp đổ (1884)

Từ chiều 18 – 8 – 1883, hạm đội Pháp bắt đầu bắn phá dữ dội các pháo đài ở cửa Thuận An. Đến ngày 20 – 8, chúng đổ bộ lên khu vực này. Triều đình hoảng hốt xin đình chiến. Cao uỷ Pháp là Hác-măng lên ngay Huế và đưa ra một bản hiệp ước thảo sẵn, buộc triều đình chấp nhận vào ngày 25 – 8 – 1883 (Hiệp ước Quý Mùi).

Việc triều đình kí Hiệp ước 1883 càng đẩy mạnh phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta.

Nhiều sĩ phu văn thân là quan lại triều đình ớ các địa phương, như Nguyễn Thiện Thuật. Tạ Hiện, Hoàng Ván Hoè, Lã Xuân Oai. Nguyễn Quang Bích… đã phản đối lệnh bãi binh. Đây chính là cơ sở để phái kháng chiến trong triều đình Huế, do Tôn Thất Thuyết cầm đầu, mạnh tay hành động.

Do chiến sự tiếp tục kéo dài ở Bác Kì, thực dân Pháp buộc phải tổ chức những cuộc tấn công nhằm tiêu diệt các trung tâm để không còn sót lại. Từ cuối năm 1883 đến giữa năm 1885, chúng cho quân chiếm Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hưng Hoá, Tuyên Quang… Quân Thanh đóng giữ các vị trí này chỉ chống cự lấy lệ, rồi rút. Cuối cùng, Pháp – Thanh đã đi đến thoả thuận với nhau bằng Quy ước Thiên Tân (11 – 5 – 1884), theo đó, nhà Thanh cam kết rút hết quân đội khỏi Bắc Kì.

Sau khi làm chủ tình thế, chính phủ Pháp lại bắt triều đình Huế kí bản hiệp ước mới vào ngày 6 – 6 – 1884 (Hiệp ước Pa-tơ-nốt), có nội dung cơ bản giống’ với Hiệp ước Hác-măng, chỉ sửa đổi đôi chút về ranh giới khu vực Trung Kì nhằm xoa dịu dư luận và lấy lòng vua quan phong kiến bù nhìn.

Hiệp ước Pa-tơ-nốt đã chấm dứt sự tồn tại của triều đại phong kiến nhà Nguyễn với tư cách là một quốc gia độc lập. thay vào đó là chế độ thuộc địa nửa phong kiến, kéo dài đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trước khi đi vào Hướng dẫn trả lời câu hỏi 1 2 bài 25 trang 124 sgk Lịch sử 8 chúng ta hãy trả lời câu hỏi in nghiêng giữa bài (Câu hỏi thảo luận trên lớp) sau đây:


Thảo luận

1. Trả lời câu hỏi bài 25 trang 120 sgk Lịch sử 8

Nêu những nét cơ bản của tình hình Việt Nam sau năm 1867.

Trả lời:

– Chính trị:

+ Thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị ở Nam Kì, tiến hành bóc lột nhân dân, mở trường đào tạo tay sai…Chuẩn bị kế hoạch xâm lược mới.

+ Triều đình Huế thi hành chính sách đối nội, đối ngoại lỗi thời: bóc lột nhân dân, thương lượng với Pháp để chia sẻ quyền thống trị.

– Kinh tế: sa sút, tài chính thiếu hụt.

– Xã hội: đời sống nhân dân khổ cực, hàng loạt cuộc chiến tranh nổ ra nhưng bị triều đình đàn áp.

Thực dân Pháp đã tiến hành kế hoạch đánh chiếm Bắc Kì như thế nào?

Trả lời:

– Cuối năm 1872, Pháp cho lái buôn Đuy-puy gây rối ở Hà Nội, tạo cơ hội cho Pháp kéo quân ra Bắc.

– Ngày 20-11-1873, Pháp nổ súng đánh thành Hà Nội.

– Tiếp đó, Pháp cho quân đánh chiếm các tỉnh Hưng Yên, Phủ Lý, Hải Dương, Ninh Bình và Nam Định.

Tại sao quân triều đình ở Hà Nội đông mà vẫn không thắng được giặc?

Trả lời:

– Nguyễn Tri Phương và các quan ở Hà Nội lung túng, bị động chỉ ngồi chờ lệnh của triều đình.

– Triều đình không kiên quyết chống giặc, không phát động nhân dân chống giặc.

– Quân triều đình đông nhưng trang bị vũ khí thô sơ.


2. Trả lời câu hỏi bài 25 trang 121 sgk Lịch sử 8

Trình bày diễn biến của trận Cầu Giấy năm 1873.

Trả lời:

– Ngày 21-12-1873, quân Pháp đánh ra Cầu Giấy.

– Quân Pháp bị đội quân của Hoàng Tá Viêm và quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc phục kích.

– Gác-ni-ê cùng nhiều sĩ quan và binh lính địch bị giết tại trân.

Tại sao triều đình Huế kí Hiệp ước Giáp Tuất (1874)?

Trả lời:

Triều đình Huế kí Hiệp ước Giáp Tuất vì:

– Triều đình Huế quá đề cao và sợ thực dân Pháp, không tin vào sức mạnh của nhân dân và cho rằng khó có thể đánh thắng được quân Pháp.

– Lúc này diễn ra nhiều cuộc đấu tranh của nông dân. Triều đình Huế muốn hoà với Pháp để đem đại quân ra tiêu diệt các cuộc nổi dậy ở đất Bắc đang huy hiếp ngai vàng của dòng họ Nguyễn, bảo vệ quyền lợi của dòng họ và giai cấp.

– Ảo tưởng dựa vào con đường thương thuyết để giành lại những vùng đất đã mất.


3. Trả lời câu hỏi bài 25 trang 122 sgk Lịch sử 8

Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ hai như thế nào?

Trả lời:

– Lấy cớ triều đình Huế vi phạm Hiệp ước 1874, ngày 3 – 4 – 1882, quân Pháp đổ bộ Hà Nội.

– Pháp gửi tối hậu thư yêu cầu ta phái khí giới và giao thành không điều kiện.

– Không đợi ta trả lời, Pháp nổ súng tấn công. Quân ta anh dũng chống trả nhưng thành Hà Nội vẫn bị rơi vào tay giặc.

– Quân Pháp tỏa đi đánh chiếm Hòn Gai, Nam Định và các tỉnh đồng bằng Bắc Kì.


4. Trả lời câu hỏi bài 25 trang 123 sgk Lịch sử 8

Nhân dân Bắc Kì đã phối hợp với quân đội triều đình để kháng chiến chống Pháp như thế nào?

Trả lời:

– Nhân dân tích cực phối hợp với quân triều đình kháng chiến.

+ Nhân dân đốt nhà, tạo thành bức tường lửa chặn giặc.

+ Tổ chức thành đội ngũ, có vũ trang tự vệ để tham gia bảo vệ thành.

– Cuộc chiến đấu trong lòng địch diễn ra rất quyết liệt.

– Nhân dân không bán lương thực cho Pháp, tích cực đào hào, dắp lũy, cắm kè trên sông, làm hầm chông, cạm bẫy để chống Pháp.

Tại sao thực dân Pháp không nhượng bộ triều đình Huế sau khi Ri-vi-ê bị giết tại trận Cầu Giấy năm 1883?

Trả lời:

Thực dân Pháp không nhượng bộ triều đình Huế sau khi Ri-vi-ê bị giết tại trận Cầu Giấy năm 1883 vì:

– Triều đình Huế suy yếu, chủ trương thương lượng với Pháp, hi vọng Pháp sẽ rút quân.

– Thực dân Pháp có thêm viện binh, tiềm lực kinh tế, quân sự ngày càng mạnh.


5. Trả lời câu hỏi bài 25 trang 124 sgk Lịch sử 8

Thái độ của nhân dân ta khi triều đình Huế kí các hiệp ước đầu hàng thực dân Pháp như thế nào?

Trả lời:

Triều đình Huế lần lượt kí với Pháp hai bản hiệp đầu hàng: Hiệp ước Hác- măng (1883) và Pa-tơ- nốt (1884):

– Nhân dân vẫn tiếp tục đấu tranh chống Pháp và chống triều đình.

– Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra.

Dưới đây là Hướng dẫn trả lời câu hỏi 1 2 bài 25 trang 124 sgk Lịch sử 8. Các bạn hãy đọc kỹ đầu bài trước khi giải nhé!


Câu hỏi

Giaibaisgk.com giới thiệu với các bạn đầy đủ phương pháp trả lời câu hỏi lịch sử 8 kèm câu trả lời chi tiết câu hỏi 1 2 bài 25 trang 124 sgk Lịch sử 8 của Bài 25: Kháng chiến lan rộng ra toàn quốc (1873 – 1884) của Chương I. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ năm 1858 đến cuối thế kỉ XIX trong Phần hai. Lịch sử Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1918 cho các bạn tham khảo. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:

Trả lời câu hỏi 1 2 bài 25 trang 124 sgk Lịch sử 8
Trả lời câu hỏi 1 2 bài 25 trang 124 sgk Lịch sử 8

1. Trả lời câu hỏi 1 bài 25 trang 124 sgk Lịch sử 8

Lập bảng nêu nội dung chủ yếu của các hiệp ước 1883 và 1884.

Trả lời:

Hiệp ước Hác-măng 1883 Hiệp ước Pa-tơ-nốt 1884
– Bắc Kì và Trung Kì đặt dưới sự bảo hộ của Pháp, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kì, nhập vào Nam Kì thuộc Pháp.
– Triều đình Huế được cai quản Trung Kì nhưng phải thông qua Khâm sứ Pháp ở Huế. Ba tỉnh Thanh –Nghệ-Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kì.
– Công sứ Pháp ở Bắc Kì kiểm soát mọi công việc của quan lại triều đình, nắm quyền trị an và nội vụ.
– Việc giao thiệp với nước ngoài của triều đình Huế đều do Pháp nắm.
– Triều đình Huế rút quân đội khỏi Trung Kì.
Nội dung cơ bản giống với Hiệp ước 1883, chỉ sửa đổi về ranh giới khu vực Trung Kì như:
– Trả lại các tỉnh Bình Thuận ở phía Nam và Thanh-Nghệ-Tĩnh ở phía Bắc cho triều đình Huế.
– Cho phép triều đình Huế có quân đội riêng.

2. Trả lời câu hỏi 2 bài 25 trang 124 sgk Lịch sử 8

Tại sao nói từ năm 1858 đến năm 1884 là quá trình triều đình Huế đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược?

Trả lời:

Từ năm 1858 đến năm 1884 là quá trình triều đình Huế đi từ đầu hàng từng bước đến đầu hàng toàn bộ trước quân xâm lược, lần lượt kí với Pháp các bản hiệp ước bán nước :

– Hiệp ước Nhâm Tuất 1862:

+ Thừa nhận quyền cai quản của Pháp ờ 3 tỉnh Đông Nam Kì (Gia Định, Định Tường, Biên Hoà) và đảo Côn Lôn.

+ Mở 3 cửa biển cho Pháp vào buôn bán…

– Hiệp ước Giáp Tuất 1874: thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp…

– Hiệp ước Hác-măng 1883:

+ Triều đình Huế chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ờ Bắc Kì và Trung Kì, cắt Bình Thuận nhập vào Nam Kì thuộc Pháp.

+ Việc giao thiệp với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc) đều do Pháp nắm.

– Hiệp ước Pa-tơ-nốt 1884: Tiếp tục thừa nhận sự bảo hộ của nước Pháp…

⇒ Qua những hiệp ước trên, ta thấy triều đình Huế từ chỗ cắt từng bộ phận lãnh thổ đi đến thừa nhận nền thống trị của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ nước ta. Việt Nam từ một nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến.


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Chúc các bạn làm bài tốt cùng giải bài tập sgk lịch sử lớp 8 với trả lời câu hỏi 1 2 bài 25 trang 124 sgk Lịch sử 8!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com