Giải bài tập 1 2 3 bài 25 trang 109 sgk Lịch sử 9

Hướng dẫn Trả lời câu hỏi Bài 25 – Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950), sách giáo khoa Lịch sử lớp 9. Nội dung trả lời câu hỏi và bài tập 1 2 3 bài 25 trang 109 sgk Lịch sử 9 bao gồm đầy đủ kiến thức lý thuyết và bài tập có trong SGK để giúp các em học tốt môn lịch sử lớp 9.


Lý thuyết

I. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ (19 – 12 – 1946)

1. Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ

Mặc dù đã kí Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước ngày 14 – 9 – 1946, thực dân Pháp tìm cách phá hoại, nhằm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa.

Từ cuối tháng 11 -1946, tình hình trong Nam ngoài Bắc hết sức căng thẳng. Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tập trung quân tiến công các cơ sở cách mạng, vùng tự do, căn cứ địa của ta.

Ở Bắc Bộ, ngày 20 – 11 – 1946, Pháp đánh chiếm một số vị trí quan trọng ở thành phố Hải Phòng, nổ súng vào quân ta ở thị xã Lạng Sơn.

Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12 -1946, thực dân Pháp liên tiếp gây ra nhiều cuộc xung đột vũ trang, đốt nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, đánh chiếm cơ quan Bộ Tài chính, gây xung đột đổ máu ở cầu Long Biên, tàn sát nhiều đồng bào ta ở phố Hàng Bún.

Ngày 18 – 12 – 1946. Pháp gửi hai tối hậu thư buộc Chính phủ ta giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho quân đội chúng. Pháp tuyên bố : nếu ta không chấp nhận thì ngày 20 – 12 – 1946, chúng sẽ hành động.

Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp hai ngày 18 và 19 – 12 – 1946 tại làng Vạn Phúc (Hà Đông – Hà Nội) đã quyết định phát động toàn quốc kháng chiến.

Ngay tối 19 – 12 – 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến :

“…Hỡi đồng bào !

Chúng ta phải đứng lên !

Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc.

Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng: cuốc, xuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước

… Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thì thắng lợi nhất định về dân tộc ta !”

Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta trong cả nước, trước tiên là nhân dân Hà Nội, đứng lên kháng chiến. Đến 19 – 12 – 1946, tiếng súng kháng chiến bắt đầu.

2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của ta

Những nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược được thể hiện trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, sau đó được nêu đầy đủ, giải thích cụ thể trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh tháng 9 – 1947. Tính chất, mục đích, nội dung, phương châm chiến lược của cuộc chiến tranh nhân dân là toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.

Cuộc kháng chiến của ta là cuộc chiến tranh nhân dân, chiến tranh tự vệ chính nghĩa, tiến bộ, nhằm hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, từng bước thực hiện nhiệm vụ dân chủ, đem lại ruộng đất cho nhân dân.

Cuộc kháng chiến đó do toàn dân tiến hành. Nó diễn ra không chỉ trên một trận quân sự mà cả trên các mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.

II. Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía bắc vĩ tuyến 16

Mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, quân dân ta chủ động tiến công quân Pháp, bao vây, giam chân lực lượng chúng ở Thủ đô Hà Nội, các thành phố và các thị xã, tạo thế trận đi vào cuộc chiến đấu lâu dài.

Hà Nội đã mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc. Cuộc chiến đấu đã diễn ra ác liệt giữa ta và địch ở sân bay Bạch Mai, khu Bắc Bộ Phủ, đầu cầu Long Biên, ga Hàng Cỏ, các phố Khâm Thiên, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Da, Hàng Trống…

Đến ngày 17 – 2 – 1947, Trung đoàn Thủ đô (đơn vị chính thức được thành lập :trong quá trình chiến đấu) thực hiện cuộc rút quân khỏi vòng vây của địch, ra căn cứ an toàn.

Trong gần hai tháng (từ ngày 19 – 12 – 1946 đến ngày 17 – 2 – 1947), quân dân ta ở Hà Nội đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng nghìn tên địch, thủ và phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh, thực hiện được nhiệm vụ giam chân địch ở thành phố để hậu phương kịp thời huy động lực lượng kháng chiến, di chuyển kho hàng, công xưởng về chiến khu, bảo vệ an toàn cho Trung ương Đảng, Chính phủ trở lại căn cứ địa, lãnh đạo kháng chiến lâu dài.

Tại các thành phố Nam Định, Huế, Đà Nẵng…, quân dân ta chủ động tiến công, tại khỏi vòng chiến đấu một số lực lượng của chúng; bao vây, giam chân Pháp suốt trong hai, ba tháng chiến đấu, cuối cùng quân ta chủ động rút khỏi thành phố, lui về căn cứ, tổ chức cuộc chiến đấu lâu dài. Riêng thành phố Vinh, ngay từ đầu cuộc chiến đấu, quân dân ta đã buộc địch đầu hàng.

Phối hợp với cuộc chiến đấu ở các đô thị phía bắc vĩ tuyến 16, quân dân ta ở các tỉnh phía nam (Nam Bộ và Nam Trung Bộ) đã đẩy mạnh chiến tranh du kích, chặn đánh địch trên các tuyến giao thông, phá cơ sở hậu cần của chúng.

III. Tích cực chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài

Cuối tháng 10 – 1946, sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm nước Pháp trở về, nhất là sau vụ thực dân Pháp gây xung đột ở Hải Phòng và Lạng Sơn (20 -11 -1946), công việc chuẩn bị cho kháng chiến ở Hà Nội được đẩy mạnh. Đợt tổng di chuyển bắt đầu nhằm đưa máy móc, thiết bị, vật liệu, hàng hóa, lương thực, thực phẩm đến nơi an toàn.

Đồng thời với việc di chuyển, ta tiến hành “tiêu thổ kháng chiến”, vận động, tổ chức nhân dân tản cư. nhanh chóng chuyển đất nước sang thời chiến.

Sau khi việc di chuyển đã hoàn thành, Nhà nước bắt tay xây dựng lực lượng về mọi mặt để bước vào cuộc chiến đấu lâu dài.

Về chính trị, Chính phủ quyết định chia nước ta thành 12 khu hành chính và quân sự.

Về quân sự, mọi người dân từ 18 đến 45 tuổi đều tham gia dân quân và từ dân quân được tuyển chọn vào du kích, rồi bộ đội địa phương hoặc bộ đội chủ lực. Vũ khí vừa tự tạo, vừa lấy của địch để tự trang bị.

Về kinh tế, Chính phủ ban hành các chính sách để duy trì và phát triển sản xuất, trước hết là sản xuất lương thực, theo khẩu hiệu “Thực túc binh cường”, “Ăn no đánh thắng”. Nhà Tiếp tế được thành lập. làm nhiệm vụ thu mua, dự trữ và phân phối thóc gạo, muối, vải bảo đảm nhu cầu về ăn mặc cho lực lượng vũ trang và nhân dân ở hậu phương.

Về giáo dục, phong trào Bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và phát triển.

IV. Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947

1. Thực dân Pháp tiến công căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc

Để giải quyết khó khăn khi phạm vi chiếm đóng mở rộng và thực hiện âm mưu “Đánh nhanh thắng nhanh”, tháng 3 – 1947, Chính phủ Pháp cử Bô-la-e làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương thay Đác-giăng-li-ơ.

Thực hiện âm mưu tập hợp những phần tử Việt gian phản động, Bô-la-e lập ra Mặt trận quốc gia thống nhất. tiến tới thành lập một Chính phủ bù nhìn trung ương.

Cùng lúc, thực dân Pháp huy động 12 000 quân tinh nhuệ và hầu hết máy bay ở Đông Dương, chia thành ba cánh, mở cuộc tiến công căn cứ địa Việt Bắc nhằm phá tan cơ quan đầu não kháng chiến, tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, khóa chặt biên giới Việt – Trung, ngăn chặn liên lạc giữa ta với quốc tế…

Ngày 7 – 10 – 1947, từ sáng sớm, một binh đoàn dù đổ quân xuống chiếm thị xã Bắc Kạn và chiếm thị trấn Chợ Mới, Chợ Đồn.

Cùng ngày hôm đó, một binh đoàn lính bộ từ Lạng Sơn đánh lên Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng, một cánh quân khác đánh xuống Bắc Kạn, tạo thành gọng kìm bao vây phía đông và phía bắc căn cứ địa Việt Bắc.

Ngày 9-10-1947, một binh đoàn hỗn hợp lính bộ và lính thủy đánh bộ ngược sông Hồng, sông Lô và sông Gâm lên thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hóa Đòi Thị (Tuyên Quang), bao vây phía tây căn cứ địa Việt Bắc.

2. Quân dân ta chiến đấu bảo vệ căn cứ địa Việt Bắc

Thực hiện chỉ thị của Trung ương, trên các hướng, khắp các mặt trận, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, bẻ gãy từng gọng kìm của chúng.

Tại Bắc Cạn, ngay từ đầu, quân dân ta chủ động kịp thời phản công và tiến công địch, tiến hành bao vây, chia cắt, cô lập chúng, tổ chức đánh tập kích vào những nơi địch chiếm đóng, phục kích trên đường từ Bắc Kạn đi Chợ Mới, Chợ Đồn. Vừa chặn đánh địch, ta vừa bị mất khẩn trương di chuyển các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ các công xưởng, kho tàng từ nơi địch uy hiếp, chiếm đóng đến nơi an toàn.

Ở hướng Đông, quân ta phục kích chặn đánh địch trên Đường số 4, cản bước tiến của chúng, tiêu biểu là trận đánh phục kích trên đường Bản Sao – đèo Bông Lau ngày 30 – 10 – 1947.

Ở hướng Tây, quân ta phục kích chặn đánh nhiều trận trên sông Lô. Cuối tháng 10 -1947,5 tàu chiến địch có máy bay hộ tống từ Tuyên Quang đi Đoan Hùng lọt vào trận địa phục kích của ta (tại Đoan Hùng). Đầu tháng 11 – 1947, 2 tàu chiến và 1 ca nô địch từ Chiêm Hóa về thị xã Tuyên Quang đã lọt vào trận địa phục kích của ta (tại Khe Lau, ngã ba sông Lô và sông Gâm).

Phối hợp với cuộc chiến đấu ở Việt Bác, quân dân ta trên các chiến trường toàn quốc hoạt động mạnh, góp phần kiềm chế quân địch.

Cuộc chiến đấu liên tục 75 ngày đêm đã kết thúc bằng cuộc rút chạy của đại bộ phận quân Pháp khỏi Việt Bắc. Căn cứ địa Việt Bắc biến thành “mồ chôn giặc Pháp”. Cơ quan đầu não kháng chiến được bảo toàn. Bộ đội chủ lực của ta ngày càng trưởng thành.

V. Đẩy mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện

Sau thất bại ở Việt Bắc, thực dân Pháp tăng cường thực hiện chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh nhằm chống lại cuộc kháng chiến lâu dài, toàn dân, toàn diện của ta.

Về phía ta, thực hiện phương châm chiến lược “đánh lâu dài”, phá âm mưu mới của địch. Đảng và Chính phủ chủ trương tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chính quyền dân chủ nhân dân từ trung ương đến cơ sở, tăng cường lực lượng vũ trang nhân dân, đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.

Về quân sự, ta chủ trương động viên nhân dân thực hiện vũ trang toàn dân, phát triển chiến tranh du kích.

Về chính trị và ngoại giao, năm 1948, tại Nam Bộ, lần đầu tiên ta tiến hành bầu cử Hội đồng Nhân dân cấp xã đến cấp tỉnh, ở nhiều nơi, Hội đồng Nhân dân và ủy ban Kháng chiến hành chính các cấp được củng cố và kiện toàn.

Tháng 6 – 1949, Việt Minh và Hội Liên Việt quyết định tiến tới thống nhất hai tổ chức từ cơ sở đến trung ương.

Ngày 14 – 1 – 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hòa tuyên bố sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với bất cứ nước lao tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Sau lời tuyên bố đó, chính phủ nhiều nước chính thức công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với ta : đầu tiên là Trung Quốc, tiếp đó là Liên Xô, rồi lần lượt các nước dân chủ nhân dân khác.

Về kinh tế, ta chủ trương vừa ra sức phá hóa kinh tế địch, vừa đẩy mạnh xây dựng và bảo vệ nền kinh tế dân chủ nhân dân có khả năng tự cấp tự túc.

Về văn hóa, giáo dục, tháng 7 – 1950, Chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo dục phổ thông, thay hệ thống giáo dục 12 năm bằng hệ thống giáo dục 9 năm, hướng giáo dục phục vụ kháng chiến và kiến quốc, đặt nền móng cho nền giáo dục dân tộc dân chủ nhân dân.

Trước khi đi vào Hướng dẫn Giải bài tập 1 2 3 bài 25 trang 109 sgk Lịch sử 9 chúng ta hãy trả lời câu hỏi in nghiêng giữa bài (Câu hỏi thảo luận trên lớp) sau đây:


Thảo luận

1. Trả lời câu hỏi bài 25 trang 104 sgk Lịch sử 9

Trước ngày 19-12-1946, thực dân Pháp đã có những hành động gì nhằm đẩy nước ta nhanh tới chiến tranh?

Trả lời:

Pháp bội ước, tìm mọi cách để phá hoại:

– Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tấn công các cơ sở cách mạng, vùng tự do, căn cứ địa của ta.

– Ở Bắc Bộ, ngày 20-11-1946, Pháp đánh chiếm một số vị trí quan trọng ở thành phố Hải Phòng, nổ súng vào quân ta ở thị xã Lạng Sơn.

– Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12-1946, thực dân Pháp liên tiếp gây ra những cuộc xung đột vũ trang.

– Ngày 18-12-1946, Pháp gửi tối hậu thư buộc chính phủ ta phải giải tán lực lượng tự về chiến đấu, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng. Pháp tuyên bố: nếu ta không chấp nhân thì ngày 20-12-1946, chúng sẽ hành động.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến trong hoàn cảnh nào? Nêu nội dung Lời kêu gọi đó.

Trả lời:

♦ Hoàn cảnh:

– Pháp bội ước, tìm mọi cách để phá hoại nhằm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa.

– Trước âm mưu và hành động trắng trợn của Pháp, Đảng ta đứng trước sự lựa chọn một trong hai con đường: hoặc đầu hàng hoặc chiến đấu.

– Ban thường vụ Trung ương Đảng họp hai ngày 18 và 19 -12-1946 tại làng Vạn Phúc, thị xã Hà Đông đã quyết định phát động phong trào toàn quốc kháng chiến.

– Tối 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

♦ Nội dung:

– Vạch rõ âm mưu cướp nước ta một lần nữa của Pháp.

– Kêu gọi nhân dân đoàn kết đánh giặc.

– Thể hiện quyết tâm đứng lên chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc và chính quyền vừa giành được của nhân dân Việt Nam.

– Khẳng định niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta.

Tại sao nói cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là chính nghĩa và mang tính chất nhân dân?

Trả lời:

♦ Cuộc kháng chiến của nhân dân ta là chính nghĩa vì:

– Là cuộc chiến tranh tự vệ.

– Nhằm chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp nhằm hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, từng bước thực hiện nhiệm vụ dân chủ, đem lại ruộng đất cho nhân dân.

♦ Cuộc kháng chiến của ta mang tính nhân dân vì:

Do toàn dân ta tiến hành, chủ yếu là lực lượng vũ trang của ba thứ quân đó là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.


2. Trả lời câu hỏi bài 25 trang 105 sgk Lịch sử 9

Hãy trình bày diễn biến cuộc chiến đấu ở các đô thị cuối năm 1946 – đầu năm 1947 và ý nghĩa của cuộc chiến đấu đó.

Trả lời:

♦ Diễn biến: Từ cuối năn 1946, quân dan ta chủ động tấn công quân Pháp, bao vây, giam chân lực lượng chúng ở Hà Nội và các thành phố, thị xã.

– Tại Hà Nội:

+ Cuộc chiến đấu giữa ta và địch diễn ra ác liệt ở nhiều sân bay, nhà ga, tuyến phố,…trong gần hai tháng.

+ Ngày 17-2-1947, Trung đoàn thủ đô thực hiện cuộc rút quân khỏi vòng vây của địch.

– Tại các thành phố lớn: Nam Định, Huế, Đà Nẵng,… quân ta chủ đọng tấn công địch, loại khỏi vòng chiến đấu một số lực lượng của chúng.

– Các tỉnh phía Nam đẩy mạnh chiến tranh du kích, chặn đánh địch trên các tuyến giao thông, phá cơ sở hậu cần của chúng.

♦ Ý nghĩa:

– Tiêu hao sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh .

– Giam chân địch một thời gian dài trong các đô thị, tạo ra thế trận cho cuộc chiến tranh nhân dân.

– Bảo vệ Trung ương Đảng, Chính phủ trở lại căn cứ địa an toàn.

– Tạo điều kiện cho ta chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho cuộc kháng chiến lâu dài.


3. Trả lời câu hỏi bài 25 trang 106 sgk Lịch sử 9

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã được chuẩn bị như thế nào?

Trả lời:

– Cuối năm 1946, công việc chuẩn bị cho kháng chiến ở Hà Nội được đẩy mạnh, di chuyển máy móc, thiết bị, vật liệu, hàng hóa, lương thực, thực phẩm đến nơi an toàn.

– Tiến hành “tiêu thổ kháng chiến”, vận động, tổ chức nhân dân tản cư, nhanh chóng chuyển đất nước sang thời chiến.

– Sau khi việc di chuyển đã hoàn thành, Nhà nước bắt tay xây dựng lực lượng về mọi mặt để bước vào cuộc chiến đấu lâu dài.

+ Về chính trị: chia cả nước thành 12 khu hành chính và quân sự.

+ Về quân sự, tuyển chọn dân quân, du kích,đội địa phương và bộ đội chủ lực. Vũ khí vừa tự tạo, vừa lấy của địch để tự trang bị.

+ Về kinh tế:

    Ban hành chính sách để duy trì và phát triển sản xuất, trước hết là sản xuất lương thực, theo khẩu hiệu “Thực túc binh cường”, “Ăn no đánh thắng”.

    Nha Tiếp tế được thành lập nhằm bảo đảm nhu cầu về ăn mặc cho lực lượng vũ trang và nhân dân ở hậu phương.

+ Về giáo dục, phong trào Bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và phát triển.


4. Trả lời câu hỏi bài 25 trang 107 sgk Lịch sử 9

Hãy trình bày âm mưu và hành động của thực dân Pháp trong cuộc tiến công căn cứ địa Việt Bắc của ta.

Trả lời:

– Âm mưu:

+ Phá tan cơ quan đầu não kháng chiến.

+ Tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta.

+ Khóa chặt biên giới Việt – Trung, ngăn chặn liên lạc giữa ta với quốc tế.

+ Thành lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.

– Hành động của Pháp:

+ Pháp huy động 12 000 quân tinh nhuệ và hầu hết máy bay ở Đông Dương, chia thành ba cánh, mở cuộc tiến công căn cứ địa Việt Bắc.

+ Ngày 7 – 10 – 1947, một binh đoàn dù đổ quân xuống chiếm thị xã Bắc Kạn và chiếm thị trấn Chợ Mới, Chợ Đồn.

+ Cùng ngày, một binh đoàn lính bộ từ Lạng Sơn đánh lên Cao Bằng, rồi từ Cao Bằng, một cánh quân khác đánh xuống Bắc Kạn, tạo thành gọng kìm bao vây phía đông và phía bắc căn cứ địa Việt Bắc.

+ Ngày 9-10-1947, một binh đoàn hỗn hợp lính bộ và lính thủy đánh bộ ngược sông Hồng, sông Lô và sông Gâm lên thị xã Tuyên Quang, Chiêm Hóa, Đài Thị, bao vây phía tây căn cứ địa Việt Bắc.


5. Trả lời câu hỏi bài 25 trang 108 sgk Lịch sử 9

Dựa vào lược đồ (Hình 45), trình bày diễn biến chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947.

Trả lời:

– Tại Bắc Cạn:

+ Quân ta chủ động tiến công, bao vây, tập kích vào những nơi địch chiếm đóng, phục kích trên đường từ Bắc Kạn đi Chợ Mới, Chợ Đồn.

+ Khẩn trương di chuyển các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ các công xưởng, kho tàng từ nơi địch uy hiếp, chiếm đóng đến nơi an toàn.

– Ở hướng Đông: phục kích chặn đánh địch trên Đường số 4, cản bước tiến của chúng, tiêu biểu là trận đánh phục kích trên đường Bản Sao – đèo Bông Lau ngày 30 – 10 – 1947.

– Ở hướng Tây:

+ Ta phục kích chặn đánh nhiều trận trên sông Lô.

+ Cuối tháng 10 -1947,5 tàu chiến địch có máy bay hộ tống từ Tuyên Quang đi Đoan Hùng lọt vào trận địa phục kích của ta (tại Đoan Hùng).

+ Đầu tháng 11 – 1947, 2 tàu chiến và 1 ca nô địch từ Chiêm Hóa về thị xã Tuyên Quang đã lọt vào trận địa phục kích của ta (tại Khe Lau, ngã ba sông Lô và sông Gâm).

– Phối hợp với cuộc chiến đấu ở Việt Bắc, quân dân ta trên các chiến trường toàn quốc hoạt động mạnh, góp phần kiềm chế quân địch.

⇒ Pháp rút chạy khỏi Việt Bắc.


6. Trả lời câu hỏi bài 25 trang 109 sgk Lịch sử 9

Hãy cho biết âm mưu của thực dân Pháp ở Đông Dương sau thất bại trong cuộc tiến công Việt Bắc thu – đông 1947.

Trả lời:

Âm mưu của Pháp ở Đông Dương sau thất bại trong cuộc tiến công Việt Bắc thu – đông 1947:

– Từ “đánh nha thắng nhanh” chuyển sang đánh lâu dài.

– Tăng cường thực hiện chính sách dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.

Dưới đây là Hướng dẫn Giải bài tập 1 2 3 bài 25 trang 109 sgk Lịch sử 9. Các bạn hãy đọc kỹ đầu bài trước khi giải nhé!


Câu hỏi và bài tập

Giaibaisgk.com giới thiệu với các bạn đầy đủ phương pháp trả lời câu hỏi và bài tập lịch sử 9 kèm câu trả lời chi tiết câu hỏi và bài tập 1 2 3 bài 25 trang 109 sgk Lịch sử 9 của Bài 25 – Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1950) của Chương V. Việt Nam từ cuối năm 1946 đến năm 1954 trong Phần hai. Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay cho các bạn tham khảo. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:

Giải bài tập 1 2 3 bài 25 trang 109 sgk Lịch sử 9
Giải bài tập 1 2 3 bài 25 trang 109 sgk Lịch sử 9

1. Giải bài tập 1 bài 25 trang 109 sgk Lịch sử 9

Tại sao cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp của nhân dân ta bùng nổ ngày 19-12-1946?

Trả lời:

– Sau Hiệp định sơ bộ (6 – 3 – 1946) và Tạm ước (14 – 9 – 1946), ta đã thực hiện nghiêm chỉnh, nhưng với âm mưu xâm lược lâu dài đất nước ta, Pháp đã bội ước và tăng cường các hành động khiêu khích:

+ Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tấn công các cơ sở cách mạng, vùng tự do, căn cứ địa của ta.

+ Ở Bắc Bộ, ngày 20-11-1946, Pháp đánh chiếm một số vị trí quan trọng ở thành phố Hải Phòng, nổ súng vào quân ta ở thị xã Lạng Sơn.

+ Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12-1946, thực dân Pháp liên tiếp gây ra những cuộc xung đột vũ trang.

+ Ngày 18-12-1946, Pháp gửi tối hậu thư buộc chính phủ ta giải tán lực lượng tự về chiến đấu, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng, nếu ta không chấp nhân ngày 20-12-1946, chúng sẽ hành động.

– Trước những hành động xâm lược của thực dân pháp, ngày 18 và 19 -12 – 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp quyết định phát động toàn quốc kháng chiến.

– Ngay trong đêm 19 – 12 – 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và chính phủ ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.


2. Giải bài tập 2 bài 25 trang 109 sgk Lịch sử 9

Đường lối kháng chiến tàn dân, toàn vẹn, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế của Đảng được cụ thể hóa ra sao?

Trả lời:

Đường lối kháng chiến tàn dân, toàn vẹn, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế của Đảng được cụ thể hóa trong:

– Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh.

+ Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng.

+ Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổn bí thư Trường Chinh.

– Toàn dân: cuộc kháng chiến do toàn dân tiến hành.

– Toàn diện: diễn ra không chỉ trên mặt trận quân sự mà trân cả mặt trận chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.

+ Chính trị: củng cố, xây dựng bộ máy chính quyền, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất.

+ Kinh tế: xây dựng nền kinh tế kháng chiến trên nguyên tắc vừa kháng chiên vừa kiến quốc.

+ Văn hóa: xóa bỏ nền văn hóa ngu dân nô dịch, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới.

– Trường kì: kháng chiến lâu dài; phòng ngự, cầm cự, tổng phản công vì quân Pháp còn mạnh.

– Tự lực cánh sinh: Phát huy mọi nỗ lực chủ quan, tránh tình thế bị động.


3. Giải bài tập 3 bài 25 trang 109 sgk Lịch sử 9

Phân tích ý nghĩa lịch sử của cuộc chiến đấu thắng lợi ở đô thị và chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947.

Trả lời:

♦ Ý nghĩa của cuộc chiến đấu thắng lợi ở các đô thị:

– Tiêu hao sinh lực địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh .

– Giam chân địch một thời gian dài trong các đô thị, tạo ra thế trận cho cuộc chiến tranh nhân dân.

– Bảo vệ Trung ương Đảng, Chính phủ trở lại căn cứ địa an toàn.

– Tạo điều kiện cho ta chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho cuộc kháng chiến lâu dài.

♦ Ý nghĩa thắng lợi của chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947:

– Là chiến dịch phản công lớn đầu tiên của ta giành được thắng lợi trong kháng chiến chống Pháp.

– Bảo vệ căn cứ Việt Bắc, bộ đội chủ lực ngày càng trưởng thành.

– Làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp, buộc Pháp phải chuyển sang đánh lâu dài với ta.

– Chứng minh sự đúng đắn trong đường lối kháng chiến của Đảng, sự vững chắc của Căn cứ địa Việt Bắc.

– Chứng tỏ rằng lực lượng của ta ngày càng hùng mạnh, lực lượng của địch ngày càng suy yếu, cuộc chiến thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta.

– Ta có thêm điều kiện để xây dựng và phát triển lực lượng kháng chiến.

– Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Chúc các bạn làm bài tốt cùng giải bài tập sgk lịch sử lớp 9 với trả lời câu hỏi và bài tập 1 2 3 bài 25 trang 109 sgk Lịch sử 9!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com