Hướng dẫn Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học Ngữ văn 11

Nội dung bài Hướng dẫn Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học Ngữ văn 11 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, phân tích, cảm nhận, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn lớp 11 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn và ôn thi THPT Quốc gia.


I – HƯỚNG DẪN CHUNG

– Đọc kĩ các bài Thao tác lập luận phân tích, Thao tác lập luận so sánh để có thể vận dụng tốt khi làm bài.

– Đọc lại các văn bản văn học vừa học, hệ thống hóa những kiến thức đã tiếp nhận từ các bài học để làm bài.


II – GỢI Ý MỘT SỐ ĐỀ BÀI

1. So Sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau:

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bì tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân.
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

2. Nguyễn Khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ có điểm khác nhau như thế nào? Hãy làm rõ ý kiến của mình.

3. Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.

4. Những cảm nhận sâu sắc của anh (chị) qua tìm hiểu cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.


III – GỢI Ý CÁCH LÀM BÀI


IV – VĂN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC – THAM KHẢO

1. So Sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều

Dài bài:

Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận

Thân bài:

– Giới thiệu chung về Truyện Kiều

– Vị trí đoạn trích

– Giới thiệu hai chị em → đều đẹp: “tố nga”, “mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”

– Phân tích vẻ đẹp của Thúy Vân:

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

+ Vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu.

+ Vẻ đẹp của sự hài hòa và dung hòa được với “xung quanh”

– Vẻ đẹp của Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn:

Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân.

+ Thúy Kiều lại được tả là sắc sảo mặn mà” hơn hẳn Thủy Vân ⇒ Đó là nghệ thuật đòn bẩy

+ Vẻ đẹp lộng lẫy sắc nước hương trời đến hoa phải ghen, liễu phải hờn

+ Thúy Kiều chẳng những rất đẹp mà còn thông minh và tài hoa nữa: giỏi thơ,ca, nhạc hoạ…

+ Dự cảm về số mệnh: “bạc mệnh”

– Nghệ thuật: ước lệ, tượng trung, điển cổ để miêu tả, làm nổi bật vẻ đẹp của hai chị em

Kết bài:

– Khẳng định lại vẻ đẹp của hai chị em

– Trân trọng đề cao vẻ đẹp con người, vẻ đẹp hoàn thiện , hoàn mỹ của hai chị em Kiều ⇒ cảm hứng nhân đạo.

Bài tham khảo 1:

Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Đoạn trường tân thanh tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. Hai mươi tư câu thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài, đức hạnh của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.

Với ngòi bút của một kì tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai nàng giai nhân tuyệt thế:

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.

Vân là em, Kiều là chị. Hai chị em Vân và Kiều (con đầu lòng của gia đình Vương viên ngoại) đều là những ả tố nga – những người con gái đẹp. Vẻ đẹp của hai nàng là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:

Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn mười nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những gì đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều và Thuý Vân đều mang vẻ đẹp lí tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.

Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:

Vân xem trang trọng khác vời,

Hai chữ trang trọng trong câu thơ đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân. Vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời:

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.

Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.

Tả Vân thật kĩ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác hoạ thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:

Kiều càng sác sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.

Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái mặn mà của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái tóc như Thuý Vân mà Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc tả bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ:

Làn thu thủy nét xuân sơn,

Câu thơ tả đôi mắt mà gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy có làn thu thủy – làn nước mùa thu, có nét xuân sơn – dáng núi mùa xuân. Cũng như khuôn mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú mà khiến:

Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh.

Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua, nhường mà cau mày, bặm môi tức giận, mà đố kị hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của Vân là những gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp của nước non, của không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm cho nghiêng nước, đổ thành:

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,

Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai nhân tuyệt thế. Và cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những phẩm chất bên trong cao quí là tài và tình rất đặc biệt:

Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Kiều có cả tài cầm – kì – thi – hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở mức độ tuyệt đối: vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là một thiên Bạc mệnh. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc – tài – tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng. Nhưng nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đố kị và tài hoa trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà có của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn mĩ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia khó có một chỗ đứng cho nàng. Và cung đàn Bạc mệnh nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm, truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức chân dung Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận.

Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.

Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép, mẫu mực của hai chị em Kiều:

Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.

Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc – tài – tình mà còn có đức hạnh. Sống phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê – tới tuổi búi tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:

Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông mành, gạt tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị em để đề cao hơn đức hạnh của hai nàng.

Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mĩ lệ nhất. Hai bức tranh mĩ nhân bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các biện pháp tu từ trong ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.

Bài tham khảo 2:

Chị em Thúy Kiều là đoạn trích nằm ở phần mở đầu Truyện Kiều của Nguyễn Du – nhà thơ nhân đạo xuất sắc cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn, đồng thời cũng là đỉnh cao nghệ thuật của thơ ca tiếng Việt, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nhân vật mà đoạn trích này là một ví dụ tiêu biểu.

Sau mấy câu tóm tắt về gia cảnh của vương viên ngoại, nhà thơ giới thiệu vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Thúy Vân:

Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân…
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Bút pháp tả người trong đoạn trích này là bút pháp ước lệ thường thấy trong thơ văn cổ điển, lấy những nét đẹp của thiên nhiên để so sánh với vẻ đẹp của con người. Ở những nhà thơ khác, nếu theo cách tả này thì chân dung nhân vật thường chung chung, mờ nhạt. Song công thức ước lệ ấy dưới ngòi bút tài hoa, sáng tạo của Nguyễn Du lại biến hóa khôn lường, khiến cho nhân vật trở nên sinh động.

Nhà thơ giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều bằng cách gọi trân trọng dành cho những người con gái đẹp: tố nga và khẳng định: Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Cả hai đều có nhan sắc chim sa cá lặn. Hình dáng thanh tú, yểu điệu (mai cốt cách), tâm hồn trong trắng như sương, như tuyết (tuyết tinh thần).

Nguyễn Du rất kĩ lưỡng trong việc lựa chọn hình ảnh và từ ngữ để miêu tả. Thúy Vân hiện lên trước mắt người đọc với vẻ đẹp đài các, kiêu sa:

Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Gương mật Thúy Vân toát lên vẻ đẹp phúc hậu, tươi tắn, gợi sự đầy đủ, viên mãn. Nàng cười tươi như hoa nở, tiếng hói trong như tiếng ngọc rơi trên mâm vàng. Tóc nàng đen mướt đến mây cũng phải thua, da nàng trắng đến mức tuyết cũng phải nhường. Dường như Tạo hoá đã ban cho Thúy Vân rất nhiều đặc ân mà nàng vẫn không bị ai ganh ghét và đố kị. Vẻ đẹp tràn đầy sức sống ấy báo trước cuộc đời Thúy Vân sau này sẽ yên ổn, vinh hoa. Nàng sẽ được hưởng mọi điều sung sướng của một bậc mệnh phụ phu nhân.

Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du lại miêu tả Thúy Vân trước, Thúy Kiều sau. Chủ ý của nhà thơ là lấy vẻ đẹp của cô em làm nền cho vẻ đẹp của cô chị – nhân vật chính, vẻ đẹp của Thúy Vân trang trọng khác vời, tức là đạt tới mức cao nhất của nhan sắc mà Tạo hóa ban cho người phụ nữ; nhưng vẻ đẹp của Thúy Kiều lại đặc biệt ở chỗ là nó phá vỡ khuôn khổ thông thường từ trước tới nay.

Ngay từ câu đầu giới thiệu về Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khẳng định:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.

Thúy Vân đã đẹp khác người thường, Thúy Kiều lại hơn hẳn Vân cả tài lẫn sắc. Vẻ đẹp sắc sảo mặn mà của Thúy Kiều gây ấn tượng rất mạnh, ai được chiêm ngưỡng một lần ắt chẳng thể nào quên. Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du không đi vào chi tiết như tả Thúy Vân mà nhấn mạnh vào vẻ đẹp của đôi mắt – cửa sổ tâm hồn:

Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Mắt nàng long lanh như nước hồ mùa thu, lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Ẩn chứa trong đôi mắt ấy là một tâm hồn đa cảm khác thường. Nhan sắc của nàng nghiêng nước nghiêng thành, khiến hoa phải ghen vì thua thắm, liễu phải hờn vì kém xanh. Tác giả đã đem hết tài năng nghệ thuật và tình cảm mến yêu, khâm phục để tả Thúy Kiều nhưng ông cũng có ý hé lộ cho người đọc thấy dự cảm bất an về tương lai của nàng. Theo thuyết tài mệnh tương đối khá phổ biến trong dân gian thời ấy thì phàm cái gì tốt đẹp trên đời đều khó mà giữ được bền lâu. Thúy Kiều đẹp không ai sánh bằng, ắt nàng sẽ bị người đời ghen ghét và đày đọa.

Một điều đáng chú ý nữa là khi tả Thúy Vân, thi hào Nguyễn Du tuyệt nhiên không nhắc đến tài. Còn tả Thúy Kiều thì ông nhấn mạnh nàng là người tài sắc vẹn toàn:

Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Trong đời, hiếm có người con gái nào đa tài như Thúy Kiều, nhất là tài chơi hồ cầm của nàng thì không ai bì kịp. Có sắc, có tài, Thúy Kiều lại có thêm tâm hồn mẫn cảm lạ lùng. Dường như nàng linh cảm được về số phận bất hạnh của mình nên đã sáng tác cung đàn bạc mệnh mà ai nghe cũng phải não lòng:

Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.

Bốn câu thơ cuối đoạn, tác giả nhận xét chung về hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân và hoàn cảnh sống của họ:

Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Những chi tiết trên chứng tỏ họ là con nhà nền nếp, được hưởng thụ một nền giáo dục đầy đủ và tốt đẹp; đồng thời khẳng định phẩm hạnh trong trắng, cao quý của chị em Thúy Kiều.

Đoạn trích chỉ có hai mươi bốn câu thơ nhưng đã cho chúng ta thấy được tài năng nghệ thuật tuyệt vời của Nguyễn Du. ông xứng đáng là bậc thầy về sử dụng thủ pháp ước lệ để miêu tả chân dung nhân vật. Mỗi nhân vật của ông có diện mạo riêng, tính cách riêng rõ nét.

Trong khi miêu tả vẻ đẹp chị em Thúy Kiều, tác giả bày tỏ tình thương yêu, trân trọng đối với con người; kín đáo khẳng định rằng một con người tài sắc vẹn toàn như Thúy Kiều xứng đáng được hưởng tình yêu và hạnh phúc. Sau này, cuộc đời nàng bị đoạ đày, bất hạnh, ấy là do tội ác của các thế lực đen tối gây ra. Đọc đoạn trích, chúng ta có thiện cảm với hai chị em Thúy Kiều và cùng với tác giả, chúng ta hãy dõi theo bước chân của họ trên đường đời vạn nẻo đầy chông gai, sóng gió.

Bài tham khảo 3:

Thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. 24 câu lục bát đã miêu tả sắc, tài và đức hạnh chị em Thúy Kiều, Thúy Vân-hai tuyệt thế giai nhân với tất cả tấm lòng quý mến và trân trọng của nhà thơ thiên tài dân tộc.

Bốn câu đầu, Nguyễn Du giới thiệu vị thứ trong gia đình: “Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân”, là con đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại. “Hai ả tố nga” là hai cô gái xinh xắn, xinh tươi. Cốt cách thanh cao như mai (một loài hoa đẹp và quý), tinh thần trinh trắng như tuyết. Hai chị em có nhan sắc tâm hổn hoàn mĩ “mười phân vẹn mười”, tuy thế, mỗi người lại có một nét đẹp riêng “ mỗi người một vẻ”.

Một cái nhìn phát hiện đầy trân trọng; lấy mai và tuyết làm chuẩn mực cái đẹp, Nguyễn Du miêu tả tâm hồn trong sáng, trinh trắng làm rõ cái thần bức chân dung thiếu nữ.

Bốn câu tiếp theo tả nhan sắc Thúy Vân. Mỗi câu thơ là một nét vẽ tài hoa về bức chân dunc giai nhân. Cử chỉ, cách đi đứng… rất trang trọng quý phái. Cách ứng xử thì đoan trang. Mày nở nang, thanh tú như mày con bướm tằm. Gương mặt xinh tươi như trăng rằm. Nụ cười tươi thắm như hoa. Tiếng nói trong như ngọc. Tóc mềm, bóng mượt đến nỗi “mây thua”. Da trắng mịn làm cho tuyết phải “nhường”. Cách miêu tả đặc sắc, biến hóa. Sử dụng ẩn dụ, nhân hóa tài tình:

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang.

Dùng thủ pháp so sánh, nhân hóa:

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Từ ngữ: “trang trọng”, “đoan trang” là 2 nét vẽ tinh tế, gợi tả cái thần của bức chân dung ả tố nga: vẻ đẹp quý phái, phúc hậu. Một cái nhìn nhân văn đầy quý mến trân trọng của nhà thơ khi miêu tả Thúy Vân.

Mười hai câu tiếp theo tả sắc, tài Thúy Kiều. Nguyễn Du tả Thúy Vân trước, tả Thúy Kiều sau, chỉ dùng 4 câu tả Thúy Vân, dùng đến 12 câu tả Thúy Kiều. Đó là một dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du, Kiều không chỉ đẹp mà còn giàu tài năng. Vẻ đẹp của Kiều là ”sắc sảo, mặn mà”, đẹp “nghiêng nước nghiêng thàmh”. Kiều là tuyệt thế giai nhân “sắc đành đòi một”. Tài năng thì may ra còn có người thứ hai nào đó bằng Kiều: tài đành họa hai”. Nguyễn Du dùng biện pháp tu từ ẩn dụ so sánh kết hợp với nhân hóa thậm xưng để ca ngợi và miêu tả nhan sắc Thúy Kiều:

Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Mắt đẹp xanh trong như nước hồ thu, lông mày thanh tú như dáng vẻ nét núi mùa xuân. Môi hồng má thắm làm cho hoa ” ghen nước da trắng xinh làm cho liễu phải “hờn”. Vẫn lấy vẻ đẹp thiên nhiên (thu thủy, xuân sơn, hoa, liễu) làm chuẩn mực cho cái đẹp giai nhân, đó là bút pháp ước lệ trong thơ cổ. Tuy nhiên, nét vẽ của Nguyễn Du tài hoa quá, nét vẽ nào cũng có thần rất đẹp, một vẻ đẹp nhân văn.

Kiều “thông minh vốn sẵn tính trời” nghĩa là thông minh bẩm sinh, cho nên các môn nghệ thuật như thi, họa, ca ngâm chỉ là các thú tao nhã nhưng nàng rất sành điệu, điêu luyện: “lầu bậc”, “ăn đứt” hơn hẳn thiên hạ:

Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm..
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Kiều giỏi về âm luật, giỏi đến mức “lầu bậc”. Cây đàn mà nàng chơi là cây đàn hồ cầm; tiếng đàn cùa nàng thật hay “ăn đứt “bất cứ nghệ sĩ nào. Kiều còn biết sáng tác âm nhạc, tên khúc đàn của nàng sáng tác ra là một “thiên bạc mệnh “nghe buồn thê thiết “não nhân”, làm cho lòng người sầu não, đau khổ. Các từ ngữ: sắc sảo, mặn mà, phần hơn, ghen, hờn, nghiêng nước nghiêng thành, đòi một, họa hai, vốn sẵn, pha nghề, đủ mùi, lầu bậc, ăn đứt, bạc mệnh, não nhân – tạo nên một hệ thống ngôn ngữ cực tả tài sắc và hé lộ dự báo số phận bạc mệnh của Kiều, như ca dao lưu truyền:

Một vừa hai phải ai ơi!
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen.

Bốn câu cuối đoạn nói về đức hạnh hai ả tố nga;: Tuy là khách hồng quần đẹp thế, tài thế, lại “phong lưu rất mực”, đã tới tuần “cập kê “nhưng “ hai ả tố nga” đã và đang sống một cuộc đời nền nếp, gia giáo:

Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Câu thơ “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” là một câu thơ độc đáo về thanh điệu, về sử dụng phụ âm “x” (xuân xanh xấp xỉ), phụ âm “t” (tới tuần), phu âm”c-k” (cập kê) tạo nên âm điệu nhẹ nhàng, êm đềm của cuộc sống yên vui êm ấm của thiếu nữ phòng khuê.

Đoạn thơ nói về Chị em Thúy Kiều là một trong những đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất trong Truyện Kiều được nhiều người yêu thích và thuộc. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, giàu cảm xúc. Nét vẽ hàm súc, gợi cảm, nét vẽ nào cũng có thần. Các bịên pháp tu từ ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được thi hào vận dụng thần tình tạo nên những vần thơ ước lệ mà trữ tình, đầy chất thơ. Hàm ẩn sau bức chân dung mĩ nhân là cả một tấm lòng quý mến trân trọng. Đó là nghệ thuật tả người điêu luyện của thi hào Nguyễn Du mà ta cảm nhận được.

Bài tham khảo 4:

Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở phần mở đầu tác phẩm gặp gỡ và đính ước giới thiệu gia cảnh của Thúy Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc của chị em Thúy Kiều.

Chân dung của chị em Thúy Kiều và Thúy Vân được miêu tả bằng bút pháp ước lệ:

Đầu lòng hai ả Tố Nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười

Nguyễn Du đã sử dụng điển cố văn học Trung Quốc (Tố Nga, mai cốt cách), đại từ nhân xưng (ả, chị em) và danh từ riêng (Thúy Kiều, Thúy Vân) để giới thiệu về vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều. Họ đúng là những cô gái đẹp: dáng người thanh tú như mai, tâm hồn phẩm hạnh trắng trong như tuyết. Biểu tượng mai, tuyết và truyền thống đó đã tôn vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều đạt đến độ toàn bích trong cách kiệm lời, cô đúc của tác giả. Bốn câu thơ mở đầu đã chuẩn bị cảm hứng và tạo tâm thế để người đọc đón nhận vẻ đẹp riêng của từng người. Thúy Vân – người con gái có vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang.Thúy Vân được miêu tả với vẻ đẹp tươi trẻ, tràn đầy sức sống:

Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Bốn dòng lục bát đã đặc tả nhan sắc của Thúy Vân. Nhờ vận dụng kết hợp nghệ thuật ước lệ, ẩn dụ, so sánh, thậm xưng với cách kết hợp các thành ngữ tiếng Việt (hoa cười ngọc thốt, da trắng tóc dài, tóc mây mày nguyệt), Nguyễn Du đã khắc họa tinh tế vẻ đẹp của Thúv Vân. Tác giả không tả cụ thể gương mặt, mái tóc, làn da của Thúy Vân như thế nào, nhưng bốn câu thơ đã hiện lên vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thúy Vân. Đặc biệt, việc sử dụng điển cố văn học Trung Quốc Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Nguyễn Du đã chứng tỏ tài năng của mình khi muốn qua điển cố này báo hiệu một tiền đồ tươi sáng, một tương lai tốt đẹp, một cuộc sống yên ổn nhất định sẽ đến với Thúy Vân. Bên cạnh đó, việc sử dụng một số tính từ chỉ phong cách, hình thái con người (trang trọng, đoan trang) và nghệ thuật tiểu đối trong hai câu bát đã tô đậm hơn vẻ đẹp của Thúy Vân.

Thúy Kiều – người con gái tài sắc vẹn toàn

Đọc đoạn miêu tả Thúy Vân, ta có thể thấy được cái tài, cái khéo của Nguyễn Du trong việc sử dụng từ ngữ. Thế nhưng việc miêu tả Thúy Vân chỉ là bước đệm để tác giả tả Thúy Kiều theo bút pháp tả khách hình chủ (mượn khách tả chủ), vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của Thúy Vân ánh lên đậm nét trong chân dung Thúy Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc, lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Nếu Thúy Vân được tả nhiều bộ phận (khuôn mặt, lông mày, mái tóc, màu da) thì khi tả Thúy Kiều, Nguyên Du đã tập trung đặc tả đôi mắt đẹp (và lông mày) của nàng. Tác giả đã sử dụng nhiều hình ảnh trong trẻo, mĩ lệ của thiên nhiên dưới hình thức nghệ thuật ẩn dụ, so sánh, thậm xưng kết hợp với điển cố văn học Trung Quốc (Một hai nghiêng nước, nghiêng thành để biểu hiện vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của Thúy Kiều. Tinh hoa của Thúy Kiều được bộc lộ từ đôi mắt đẹp tuyệt vời và vẻ đẹp ấy chỉ có thể so sánh với hai vẻ đẹp tiêu biểu của thiên nhiên là sơn (nét xuân sơn), thủy (làn thu thủy).

Bên cạnh vẻ đẹp hình thức, tác giả còn nhấn mạnh đến tài năng của Thúv Kiều. Điều này không hề có ở Thúy Vân. Nếu tả sắc, Nguyễn Du chi dùng bốn câu thơ, thì khi tả tài của Thúy Kiều tác giả đã dùng đến tám câu thơ. Rõ ràng, đây là phương diện, tác giả muốn nhấn mạnh và khắc sâu đối với nhân vật của mình. Thúy Kiều hiện lên là một người con gái tài sắc vẹn toàn:

Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thường, lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh’’ lại càng não nhân.

Qua tám câu thơ miêu tả tài và mệnh của Thúy Kiều, ta thấy nàng là một cô gái giỏi cầm, kì, thi, họa, ca ngâm và rất thành thạo Hồ cầm. Tiếng đàn của nàng và bản đàn có tên là Bạc mệnh do Thúy Kiều sáng tác không chỉ chứng tỏ cái tài của nàng, mà còn như là điều dự báo một tương lai ảm đạm, bất hạnh, một cuộc sống bất ổn sẽ đến với Thúy Kiều. Ở Thúy Kiều, tài và mệnh đi đôi với nhau, và không chỉ khi tả tài mới bộc lộ, mà ngay cả khi tả nhan sắc của Kiều, Nguyễn Du cũng đã dự báo cho người đọc biết rõ điều này qua những từ như “ghen”, “hờn”,” nghiêng nước”, “ nghiêng thành” đã tô đậm thêm sự bất an của nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều.

Đoạn trích Chị em Thúy Kiền đã khắc họa được chân dung nhân vật có nhan sắc, tài hoa, phẩm cách đẹp đẽ. phong phú, toàn vẹn nhưng đằng sau đó là một số mệnh diễn tả những ý niệm triết học và thể hiện một cảm hứng nhân văn sâu sắc của nhà thơ họ Nguyễn.

Đoạn trích Chị em Thúy Kiều là một mẫu mực của văn miêu tả, có giới thiệu chung, có tả riêng từng người từ tài, sắc đến đức hạnh. Ngôn ngữ cô đúc, lời thơ giàu chất xúc cảm. Các phép tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, so sánh, tương phản được sử dụng một cách tài tình. Các từ loại như các danh từ, động từ, phó từ, được sử dụng mang giá trị biểu đạt và biểu cảm cụ thể. Các điển cố, những thi liệu văn học Trung Quốc được sử dụng thích đáng nên mặc dù sử dụng ngôn ngữ ước lệ, tượng trưng nhưng bức chân dung của chị em Thúy Kiều vẫn hiện lên một cách cụ thể, sinh dộng, hấp dẫn và lôi cuốn người đọc.


2. Nguyễn Khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ có điểm khác nhau như thế nào? Hãy làm rõ ý kiến của mình

Dài bài:

Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận.

Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ cùng sống trong một thời đại (buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến ở nước ta, với bao điều nhố nhăng, bất công, tàn ác, …

Cả hai ông đều sáng tác và đều có những bài thơ nổi tiếng. Tuy vậy, giọng thơ của hai ông lại có những điểm khác nhau. Giọng thơ của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng, thâm thuý, còn giọng thơ Tú Xương mạnh mẽ, cay độc.

Thân bài:

♦ Sự giống nhau của hai ông:

– Hai ông đều sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến, đầy rẫy bất công, hai ông đã chứng kiến bao cảnh nhiễu nhương, chứng kiến cuộc sống cực khổ của người lao động.

– Hai ông đều có nỗi niềm tâm sự giống nhau:

Tâm sự yêu nước, tâm sự thời thế.

Tình cảm bạn bè và gia đình.

Đau xót trước cảnh lầm than của người dân, trước những điều nhố nhăng của xã hội đương thời.

Tố cáo, đả kích những thói hư tật xấu trong xã hội.

♦ Sự khác nhau giữa giọng thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương:

– Nguyễn Khuyến:

Thơ trào phúng: tiếng cười hóm hỉnh, nhẹ nhàng, thâm trầm đầy ngụ ý.

Thơ trữ tình của Nguyễn Khuyến: giọng thơ khi thì đằm thắm, khi thì đau xót.

– Tú Xương:

Tiếng cười trào phúng của Tú Xương là tiếng cười suồng sã, chua cay, dữ dội.

Mảng thơ trữ tình: Tiêu biểu là bài Thương vợ. Nhà thơ viết về người vợ đảm đang, chịu thương chịu khó của mình với tất cả lòng yêu thương, trân trọng, cảm phục. Bài thơ khắc hoạ thành công hình ảnh người vợ, người mẹ giàu đức hi sinh.

♦ Nguyên nhân có sự khác nhau:

Nguyễn Khuyến tài cao học rộng, thuận lợi hơn trong con đường thi cử. Ông đỗ đạt cao. Thi Hương, thi Hội, thi Đình, ông đều đỗ đầu. Ông là người tài năng, có cốt cách thanh cao, có lòng yêu nước, thương dân.

Tú Xương học giỏi nhưng lại long đong, lận đận trong con đường thi cử. Đi thi nhiều lần nhưng ông cũng chỉ đậu tú tài. Cuộc sống gia đình khó khăn. Gánh nặng gia đình đè nặng lên vai bà Tú. Ông chẳng giúp được gì cho vợ con. Vì lẽ đó, giọng thơ của ông vừa chua chát, vừa mạnh mẽ, phẫn uất.

Kết bài:

– Nhận xét, đánh giá về giá trị thơ văn và nhân cách của hai nhà thơ lớn thuộc giai đoạn văn học trung đại Việt Nam.

– Mở rộng vấn đề.

Bài tham khảo:

Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều xuất thân từ dòng dõi nho học. Do vậy giữa hai người cũng ít nhiều gặp nhau về một tư tưởng. Tuy không cùng sinh ra trong một thời kì (Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên khi Pháp chưa xâm lược còn Tú Xương sinh ra khi đất nước đang rơi vào cảnh nguy nan khốn đốn, công cuộc xâm lược và bình định của Pháp đang đi vào hồi cực thịnh). Nhưng nhìn chung hai mảnh đời đều trải qua thời kì đen tối nhất của lịch sử dân tộc.

Xã hội Việt Nam lúc ấy đã chuyển sang một xã hội mới là xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái xã hội ấy gắn với sự thay đổi trong tình hình giai cấp, sinh hoạt, trạng thái tâm lí xã hội. Đây là lúc ông làm thằng, thằng làm ông, cậu bồi, cậu bếp, thầy thông, thầy kí,… rặt một phường bất tài vô liêm sỉ nhưng sẽ làm anh làm chị, nghênh ngang vênh mặt với đời. Và đây cũng là lúc nho phong tàn tạ, sĩ khí tiêu điều, bút lông đến ngày hết được săn đón, mọi giá trị cũ đang sụp đổ trước uy thế của đồng tiền. Cái xã hội đảo điên tan tác ấy đã tác động đến nhiều nhà nho chân chính, có ý thức trước vận mệnh đất nước trong đó có Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Trước hiện thực cuộc sống ấy cả hai ông đều có những nỗi niềm giống nhau: Sự bất mãn phản kháng trước xã hội, tiếng nói tâm tình của một tấm lòng yêu nước nhưng giọng thơ lại rất khác nhau. Điều này sẽ được thấy rõ khi sớm hiểu về nội dung thơ ca của hai nhà thơ.

Cùng là sự bất mãn với xã hội, châm biếm, tố cáo những người những việc xấu xa nhưng cách thể hiện của hai nhà thơ rất khác nhau. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một nhà thơ châm biếm. Nội dung châm biếm của ông bao giờ cũng có một ý nghĩa xã hội và chính trị phong phú. Động cơ châm biếm của ông xuất phát không phải từ sự bất mãn về quyền lợi cá nhân mà là từ lòng yêu nước nồng nàn. Đối tượng đả kích của ông tập trung xung quanh những người những việc có liên quan đến việc nước mất hay việc thực dân Pháp đặt quyền thống trị trên đất nước ta. Hạng người bị Nguyễn Khuyến châm biếm nhiều hơn cả là bọn thống trị phong kiến. Ông rất khinh và ghét mọi quan lại cũ hay mới vì ông cho rằng khi chủ quyền trong nước đã mất thì làm quan là một điều hổ thẹn, một sự vi phạm không thể tha thứ được đối với đạo đức của một nhà nho chân chính. Nguyễn Khuyến đã đánh một đòn đau vào toàn bộ bọn vua quan đương thời khi chỉ ra tất cả bọn chúng chỉ là một đám hát chèo nghĩa là một đám bù nhìn của thực dân:

Vua chèo còn chẳng ra gì
Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề

Ông đã hạ bệ những ông tiến sĩ tri thức nhân tài của chế độ phong kiến khi ví chúng với những ông tiến sĩ giấy. Tất cả chỉ là một lũ bất tài vô dụng:

Chiết thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh thế mới hời
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi

Nguyễn Khuyến đã lột trần cái bản chất xấu xí giả tạo của bọn quan lại nhưng bằng một cách thể hiện một cách rất nhẹ nhàng sâu kín. Cái bản chất ấy thường được bọc bên trong những hình ảnh ẩn dụ với nhiều hình thức: khi là sự mượn lời của người vợ mắng chồng, khi là qua một đồ vật giả, khi là lời khuyên… Tất cả đều ẩn ý, sâu cay.

Khác với Nguyễn Khuyến, Tú Xương khi phản ánh hiện thực ông thường miêu tả một cách chân thật đến chua xót, đắng cay chứ không nhẹ nhàng thâm thúy. Tuy nhiên, đó không phải là “một lối chửi đổng, bất lực chứng tỏ một trạng thái đầy ghen tức, oán hờn” như có người phê phán. Ông không hoàn toàn đứng trên lập trường cá nhân, bất mãn rồi phản ánh hiện thực. Tú Xương có vướng mắc trong vấn đề thi cử, có phần bất mãn cá nhân. Điều đó chúng ta không chối cãi. Nhưng điều cần thấy trước là ở Tú Xương có phần bất mãn chung của dân tộc. Nói cho đúng là ở Tú Xương bất mãn cá nhân và bất mãn chung của dân tộc đã kết hợp thành một chỗ đứng, một tư thế cho Tú Xương nhìn hiện thực và phê phán hiện thực. Cũng là châm biếm, đả kích bọn quan lại nhưng hãy xem, quan lại trong thơ Tú Xương hiện lên như thế nào? Với một thái độ khinh ghét đến tột độ, quan lại trong mắt của Tú Xương cũng là món hàng cho nên “đứa thì mua tước, đứa mua quan”, cũng thành chuyện đắt rẻ “Tri huyện lâu nay giá rẻ mà”. Bộ mặt quan lại trong thơ Tú Xương hiện lên khá đậm nét. Tú Xương đã dựng lên trước mắt người đọc một cuốn phim thời sự đơn sơ nhưng sâu sắc về lai lịch, hành tung của bọn đó. Khi còn là sĩ tử, họ lôi thôi bệ rạc, một chút sinh khí không còn:

Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ
Họ tranh lộn nhau khoa bảng

Hai đứa tranh nhau cái thủ khoa Tuân khoe văn hoạt, nghị văn già Khi đỗ đạt được thì chẳng qua là lao sâu vào ô nhục:

Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân quan cử ngỏng đầu rồng

Rồi lực làm quan thì sa đoạ, truỵ lạc, không còn lấy chút đạo lí tối thiểu:

Đậu lạy quan xin nọ chú hàn

Đặc biệt họ chỉ chuyên nghề vơ vét, bòn rút của nhân dân mà một chút trách nhiệm cũng không hề nghĩ tới:

Chữ y chữ chiểu không phê đến
Ông chỉ quen phê một chữ tiền

Dưới ngòi bút của Tú Xương, quan lại là phường tuồng, đeo râu vẽ mặt, hò hét múa may để lừa bịp thiên hạ:

Nào có ra gì cái lũ tuồng,
Cũng hò cũng hét cũng y uông
Dẫu rằng dối được đàn con trẻ,
Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn

Mô tả bọn quan lại trong buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến như Tú Xương là hay lắm.

Trong xã hội thực dân nửa phong kiến, đồng tiền làm mưa làm gió thêm một bước gây đảo điên trong xã hội. Cùng là sự phản ánh mặt tiêu cực của đồng tiền nhưng ở Nguyễn Khuyến đó là một câu hỏi nghe nhẹ nhàng nhàng hàm ý sâu cay:

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ!
Đời trước làm quan cũng thế à?

Khác hẳn với cách viết của Tú Xương, dưới ngòi bút của ông, đồng tiền có sức mạnh kì lạ. Nó được người đời âu yếm và tôn thờ. Nó bắt kẻ “tráng sĩ cũng nằm co” nếu trong túi không có nó, ngược lại nó cho phép hễ ai có nó thì tha hồ nói dơi nói chuột mà vẫn được người khen. Đúng là:

Kẻ yêu người ghét hay gì chữ
Đứa trọng thằng khinh chỉ vì tiền.

Vì tiền mà bao nhiêu xấu xa thối nát, bao nhiêu quái gở lố lăng một ngày một diễn ra trong xã hội. Vị tiên mà có cảnh:

Chí cha chí chát khua giày dép
Đen thủi đen thui cũng lượt là.

Vì tiền mà bọn tu hành bỏ rơi cả đức độ từ bi của Phật quay sống cái nghề cho vay nặng lãi, vì tiền mà nhiều gia đình lục đục, con khinh bố, vợ chửi chồng. Thật là nguy hiểm. Đồng tiền đã phá hoại nhân tâm, phá hoại đạo lí, phá hoại bao nhiêu tình cảm thiêng liêng của con người.

Như vậy ở cùng một đối tượng phản ánh nhưng người đọc bao giờ cũng phân biệt được đâu là thơ Nguyễn Khuyến, đâu là thơ Tú Xương chính bởi giọng điệu. Thơ Nguyễn Khuyến bao giờ cũng nhẹ nhàng, thường dùng hình thức ẩn dụ để qua đó đả kích, phê phán đối tượng. Người đọc thấy được cái hàm ý sâu cay thâm thúy ẩn chứa đằng sau con chữ. Đọc thơ Nguyễn Khuyến lúc đầu tưởng là khen đấy, hỏi han ân cần thật đấy nhưng để rồi đến câu cuối lại là lời mỉa mai chế nhạo của nhà thơ. Tú Xương thì khác, ông không dùng ẩn dụ mà nói hẳn, đả kích trực tiếp đối tượng với tất cả những xấu xa của nó. Thơ ông như những đòn giáng thẳng vào đối tượng, lôi tuột hết những xấu xa, giả tạo của chúng, phơi bày trước mắt người đọc.

Đọc thơ Nguyễn Khuyến người đọc thấy hóm hỉnh và thâm thúy thì đến thơ Tú Xương đó lại là sự bực bội, bất mãn đối với cái xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái xã hội ấy đã đẻ ra những thứ nhố nhăng, lố bịch. Ở đậy, người đọc luôn thấy được ngay sự xấu xa của đối tượng bị nhắc đến và thái độ gay gắt của nhà thơ thể hiện trên con chữ mà không cần suy ngẫm, đợi chờ.

Tuy nhiên, châm biếm đả kích sự xấu xa của xã hội mới chỉ là một mặt của lòng yêu nước ở hai nhà thơ. Một mặt khác không kém phần quan trọng là những nỗi buồn rầu, đau đớn thương tiếc luôn giày vò tâm can họ. Cả hai đều ý thức được nỗi nhục mất nước, ý thức được trách nhiệm của kẻ sĩ trước vận mệnh nước nhà rồi bất lực. Họ nghĩ đến giống nòi, tổ tông, biết tỏ thái độ bất hợp tác với kẻ thù, biết khinh bỉ những kẻ bán mất lương tâm. Song đến cuối đời vẫn không thoát được cái vòng bế tắc, quẩn quanh, sự day dứt mà chủ yếu vẫn bởi họ không đủ dũng khí bước vào đấu tranh.

Nguyễn Khuyến đã từng làm quan nhưng khi nhận ra những suy đồi của chế độ ông lập tức dứt áo giã từ. Ra đi theo tiếng gọi của lương tâm ông quyết sống cuộc đời dù nghèo khổ nhưng bảo toàn được danh tiết. Tú Xương không làm quan, đi thi tám lần không đỗ chỉ bởi phạm huý, sai luật.

Đứng trước những đổi thay của thế thái nhân tình, nhân cách nhà nho chân chính của hai con người ấy vẫn giữ được sự vững vàng, kiên trung. Ở họ ta bắt gặp những quan điểm sống giống nhau. Với Nguyễn Khuyến đó là cách sống giả câm giả điếc “Tấm hồng nhan đem bôi lấm xóa nhòa”. Tú Xương cũng vậy, sống chỉ là “ấm ờ, giả câm giả điếc”, là “khôn chán thì giả làm ngây” là không cần phô trương chí khí với đời là không màng công danh, ung dung ngoài vòng cương tỏa mà vẫy vũng cho thỏa chí.

Hai con người, hai cách sống, hai cách thể hiện khác nhau, điều đó tạo nên sự độc đáo riêng đối với từng phong cách tác giả đồng thời làm giàu, làm đẹp thêm cho vườn hoa văn học đất nước. Nhưng dù khác nhau về hình thức, họ lại gặp nhau nơi tấm lòng yêu nước sắt son, chung thủy. Đây chính là yếu tố để cả Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến và người thư kí của thời đại Tú Xương luôn đi bên nhau và cùng nhau đường hoàng bước vào cõi bất diệt của văn học Việt Nam.


3. Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu

Dàn bài:

Mở bài:

– Giới thiệu tác giả Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm

– Dẫn dắt vấn đề

Thân bài:

Khái quát: Nêu hoàn cảnh sáng tác bài văn tế, giới thiệu về xuất thân những người nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Hình tượng người nông dân – nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc:

– Trước trận công đồn, họ là những người nông dân cần cù, lam lũ trong đời thường:

+ Cuộc đời lam lũ, tủi cực: cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ; việc cuốc việc cày việc bừa tay vốn quen làm.

+ Hoàn toàn xa lạ với việc binh đao: chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; tập khiên tập súng tập mác mắt chưa từng ngó.

– Những biến chuyển của họ khi quân giặc xâm lược:

+ Về tình cảm: sốt ruột trước động thái của triều đình trông tin quan như trời hạn trông mưa, căm thù giặc sục sôi muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ.

+ Về nhận thức: có ý thức trách nhiệm cao với sự nghiệp cứu nước một mối xa thư đồ sộ… đâu dung lũ treo dê bán chó.

+ Hành động tự nguyện mến nghĩa làm quân chiêu mộ và ý chí quyết tâm tiêu diệt giặc (nào đợi, chẳng thèm, ra sức đoạn kình, ra tay bộ hổ).

– Vẻ đẹp hào hùng của đội quân áo vải trong trận đánh Tây:

+ Tương quan lực lượng quá thiệt thòi, các nghĩa sĩ có vũ khí thô sơ, lực lượng mỏng trong khi kẻ thù hùng hậu, vũ khí hiện đại.

+ Bức tượng đài tập thể nghĩa sĩ vừa mộc mạc, giản dị vừa đậm chất anh hùng với tấm lòng mến nghĩa, tư thế hiên ngang, coi thường mọi khó khăn, thiếu thốn: mến nghĩa làm quân chiêu mộ, ngoài cật có một manh áo vải, hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, nào đợi tập rèn, không chờ bày bố, nào đợi mang, chi nài sắm dao tu nón gõ…

+ Tinh thần anh dũng quả cảm, khí thế tiến công như vũ bão, hành động đánh giặc quyết liệt: các động từ mạnh (đánh, đốt, chém, đạp, xô, hè, ó), hành động dứt khoát (đốt xong, chém đặng, trối kệ), khí thế ngút trời (coi giặc cũng như không, liều mình như chẳng có, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ, nào sợ… đạn nhỏ đạn to).

– Nghệ thuật xây dựng hình tượng người nông dân – nghĩa sĩ:

+ Bút pháp hiện thực đặc sắc, khai thác những chi tiết chân thực, đậm đặc chất sống, mang tính khái quát và đặc trưng cao.

+ Hệ thống từ ngữ sử dụng nhiều động từ mạnh, khẩu ngữ nông thôn, từ ngữ mang đặc trưng Nam Bộ, phép đối, từ ngữ bình dị, nhiều biện pháp tu từ được sử dụng rất thành công…

+ Cảm xúc chân thành, sâu nặng, mãnh liệt; giọng văn bi tráng, thống thiết.

Kết bài: Khẳng định vẻ đẹp và ý nghĩa cao cả của hình tượng người nông dân – nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Bài tham khảo 1:

Người nông dân Việt Nam yêu nước chống ngoại xâm đã xuất hiện từ rất lâu, ít nhất cũng trên mười thế kỉ nay. Nhưng trong văn học, hình ảnh người nông dân ấy chỉ thực sự xuất hiện vào nửa cuối thế kỉ XIX với bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyền Đình Chiểu. Có thể nói, với bài văn tế này Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật đầu tiên về người nông dân  nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là một hình tượng rất đẹp, rất chân thực đầy tính bi tráng – bi thương mà hào hùng – đúng như cuộc chiến đấu mà nhân dân Việt Nam đã tiến hành suốt nửa sau thế kỉ XIX, vì cuộc sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ quốc mình.

Tuy vậy, dù buồn thương, nhà thơ không bao giờ tuyệt vọng. Với niềm tin vào sức mạnh muôn đời của Tổ quốc, tin ở lòng yêu nước của những người dân ; dân lân bình dị và thiết tha, nhà thơ luôn luôn hướng về một tương lai tốt đẹp. Non sông rồi sẽ sạch bóng quân xâm lược, mối nhục mất nước rồi sẽ được rửa sạch làu làu:

Chừng nào Thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.

(Ngóng gió đông)

Đó là một niềm tin cảm động và mạnh mẽ. Có lẽ trước Nguyền Đình Chiểu, chưa có một nhà thơ nào sáng tác với một ý thức rõ rệt như ông:

    Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

Cái đạo của ông không là gì khác ngoài đạo yêu nước thương dân. Đó là nguồn gốc khiến thơ văn ông có sức rung cảm lớn, nguồn gốc đưa tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu đứng vào vị trí vẻ vang trong nền văn học nước nhà.

Nguyễn Đình Chiểu đã rất có lí, rất sắc khi mở đầu khúc bi ca của mình:

Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.

Quả là, qua cuộc chiến đấu này, qua cái thử thách khắc nghiệt này, bán chất trọn vẹn, tấm lòng yêu nước của những người nông dân bình thường này, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn họ, mới được tỏ bày cùng trời đất. Trước đây, họ vẫn tồn tại, nhưng nào ai biết đến họ. Họ vẫn có đấy, sống đấy, nhưng sống trong thầm lặng của sự quên lãng. Nguyễn Đình Chiểu, với sự cảm thông cao độ, nhận ra rằng cuộc sống của họ đã từng vạt vả xiết bao:

Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn,
Toan lo nghèo khó.

Bao nhiêu lượng thông tin chúa đựng trong tám tiếng ngắn ngủi ấy đã nói với chúng ta rất đầy đủ về tình cảnh của người nông dân cần Giuộc, người nông dân lục tính, cũng là người nông dân Việt Nam ngày đó. Bóng dáng của họ, nhỏ bé và cô đơn trong cuộc sống, cặm cụi, lầm lũi, lặng lẽ gập người trên những cánh đồng, oằn vai cam chịu bao nhiêu gánh nặng của cuộc sống, sự khắc nghiệt và những tai họa từ thiên nhiên, từ xã hội, như hiện lên rõ mồn một qua từng chữ. Tưởng như, chừng ấy lo toan vất vả cũng đã quá đủ đối với họ; tưởng như họ, những người nông dân vất vả ấy, chẳng còn có thể nghĩ gì thêm, lo toan gì thêm ngoài những “toan lo nghèo khó” vốn đã quá lớn lao ấy.

Thế mà không, quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, đã đến tận xóm làng, đã đến tận ngôi nhà của họ. Và, những con người đang cúi xuống ấy bỗng đứng phắt dậy, vươn vai, và họ chợt trở thành người khổng lồ như chú bé làng Gióng mày nghìn năm xưa khi chợt nghe lời truyền của sứ giả. Nhưng có một điều cơ bản rất khác xưa là tiếng rao truyền cứu nước không phải phát đi từ cung điện nhà vua mà đã được phát đi từ chính trái tim của những người nông dân Cần Giuộc. Nó chính là lòng căm thù giặc sục sôi vì hành động cướp nước:

Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bòng che trắng lốp: muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì: muốn ra cắn cổ

Như một phản ứng hạt nhân tất yếu, lòng căm thù giặc cao độ đã làm nảy sinh một khát vọng cao độ: Khát vọng đánh giặc. Đó là một ước muốn hoàn toàn tự nhiên và cũng hoàn toàn tự nguyện:

Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu thật đã khác hoàn toàn với người nông dân chỉ trước đo không bao lâu “Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” khi phải sung làm lính đi biên thủ phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua. Tự nguyện chiến đấu, ấy là nét bản chất nhất trong hành động của mọi người nghĩa sĩ thực sự. Phải chăng đó là sự tiếp tục giữa nghĩa sĩ Cần Giuộc đánh ngoại xâm với chàng tráng sĩ Lục Vân Tiên đánh cướp mà động cơ duy nhất:

Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.

Trong mọi việc nghĩa, không có việc nào lớn hơn việc cứu nước. Thấy việc nghĩa thì phải làm, làm một cách vô tư, không vụ lợi, không chần chừ, không cần đợi có đủ điều kiện mới làm. Đó là chỗ bi kịch của người nông dân Cần Giuộc, đó cũng là chỗ hùng ca của người nghĩa sĩ Gần Giuộc. Bi kịch vì:

Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng,
Trông tin quan như trời hạn trông mưa.

Họ bắt đầu cuộc chiến đấu vào lúc lẽ ra triều đình phong kiến cùng quan quân của họ đã phải tiến hành cuộc chiến đấu ấy từ lâu nhưng lại “án binh bất động” một cách khó hiểu. Bi kịch còn cho họ là những người:

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ,
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy… tay vốn quen làm
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ… mắt chưa từng ngó

Bước vào chỗ sống chết của chiến trường mà những con người ấy chỉ mang theo những trang bị vừa đủ để làm những người cày ruộng. Trước giặc dữ là những tên lính nhà nghề vừa có đủ thứ “tàu thiếc tàu đông’’, ‘‘đạn nhỏ đạn to”, họ chỉ là những người nông dân không có kiến thức gì vê trận mạc, chỉ có “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”. Cuộc chiến đấu mới chênh lệch làm sao! Kết thúc cuộc chiến đấu ấy như thế nào thì đã rõ ràng rồi. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy, tấn bi kịch đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.

Nhưng chính trong cái bi kịch ấy, bản hùng ca của cuộc sống đã cất lên. Hùng ca trước hết là ở sự ngoan cường của những con người quyết chiến thắng, vượt lên trên nỗi lo thất bại để chiến thắng, lấy tinh thần, xả thân vì nghĩa để bù đắp hết mọi sự thiếu hụt, chênh lệch của mình so với kẻ thù:

Chi nhọc quan quản gióng trống kì; trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có…
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.

Thật là phấn chấn, thật là hào hùng, thật là hả dạ. Đúng là họ đã chiến đấu như những người lính tuyệt vời dũng cảm. Ở đây, sức mạnh tinh thần đã phát huy đến mức độ tối đa và trong chừng mực nào đó, đã tỏ rõ hiệu quả của nó trước sức mạnh của chiến thuật, của vũ khí, trang bị:

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.

 … Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm cho mã tà ma lí hồn kinh…

Trong văn chương Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, quả chưa hề có một bức tranh hào hùng như thế về tư thế chiến đấu của người lính áo vải. Hình ảnh người nông dân ở đây là sự kết tinh và thăng hoa ở mức độ cao nhất những gì vốn là bản chất của họ. Trong những giây phút tuyệt vời ấy, người nông dân Cần Giuộc đã đi vào vĩnh cửu.

Quả Nguyền Đình Chiểu đã tạc nên một bức tượng đài của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhưng đây không phải là tượng đài của một người, mà của nhiều người, của một tập thể anh hùng. Không có cái tập thể ấy, không làm sao có được sự hòa hợp tuyệt đẹp, cái khí thế bừng bừng áp đảo hiểm nghèo, áp đảo cái chết, với những “đạp rào lướt tới”, “xô của xang vào”, với những “kẻ đâm ngang, người chém ngược”, “bọn hè trước, lũ ó sau” như thế dược.

Bức tượng đài của Nguyễn Đình Chiểu chỉ có một tên gọi chung là “Nghĩa sĩ Cần Giuộc”, còn mỗi người nghĩa sĩ trên đó đều vô danh. Họ đã sống những cuộc đời của quần chúng vô danh và chết cái chết của quần chúng vô danh. Họ không hề tìm một điều gì cho riêng mình khi chiến đấu. Cái điều duy nhất họ gửi lại cho đòi, điều mà Nguyễn Đình Chiểu nêu lên như một tiêu chí chung bên dưới bức tượng đài của họ, ấy là cái triết lí sống này:

Chết vinh hơn sống nhục.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ

Hoàn thành bức tượng đài của mình, Nguyễn  Đình Chiểu đã để một phần cuối cho những lời ngợi ca, thương tiếc và thắp những nén hương kính trọng:

Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên đàn Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ

Cuộc tấn công của mấy chục nghĩa quân vào đồn cần Giuộc của thực dân Pháp năm 1863 là cuộc tấn công đầu tiên của quân dân Việt Nam mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Số lượng thiệt hại mà những nghĩa quân đã gây cho giặc có lẽ cũng không là bao nhiêu. Song, hiệu quả thực sự mà họ tạo nên cho cuộc kháng chiến, cho lịch sử dân tộc, bằng lòng yêu nước tha thiết và vô tư của họ, bằng tinh thần sẵn sàng chiến đấu, sự dũng cảm vô điều kiện và tuyệt vời của họ, thì to lớn vô cùng. Họ xứng đáng được tạc thành tượng đài để đi vào bất tử. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ của người nghệ sĩ nhân dân khi tạc nên bức tượng đài ấy.

Bài tham khảo 2:

Thế kỉ XIX là thời ký lịch sử “đau thương nhưng vĩ đại” của dân tộc ta. Ở thế kỉ ấy , có một nhà thơ mù nhưng tròng lòng sáng như gương ,người đã thấy kết những gì mà bao nhiêu người mắt sáng không nhận ra. Người đó là nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Và, trong văn học Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, chưa có một hình tượng nhân dân nào chân thực và cảm động hơn người nghĩa sĩ tử trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông.

Nói đúng ra, trước Nguyễn Đình Chiểu, con người bình thường cũng xuất hiện trong văn chương Việt Nam. Tuy nhiên, đó hoặc là những ngư phủ, tiều phu hình bóng thấp thoáng, khi xa khi gần trong thơ bà Huyện Thanh Quan ,hoặc là đám đông lố nhố, hằng ngày là cục đất củ khoai, khi có dịp trở nên những “kiêu binh” lỗ mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí.

Người nông dân xuất hiện trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác hẳn. Họ thật sự là những người bình thường, là “dân áp , dân lân”, “ngoài cật có một manh áo vải”. Bản tính lại hiền lành, chất phác, quanh năm suốt tháng “côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó”. Bên trong luỹ tre làng, họ “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”, thành thục với nghề nông trang: Việc cuốc cầy, việc bừa, việc cấy, tay vốn làm quen. Nói như nhà thơ Thanh Thảo sau này, họ lấm láp sình lầy ấy đã bước vào thơ Đồ Chiểu. Đành rằng nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã có tấm lòng sáng để phát hiện ra họ ,nhưng trước hết bởi dù không áo mão cân đai phẩm hàm văn võ / họ để lại những vệt bùn làm vinh dự cho thơ. Đó chính là tấm lòng yêu nước ,trương nghĩa của người nông dân .

Khi nghe tin quân giặc đến ,dù là dân thường nhưng những người nông dân lòng đầy sốt ruột .Trong xã hội xưa, những chuyện quốc gia đại sự trước hết là việc của quan .Dân nghe theo quan mà làm dân .Dân nhìn thấy quan mà theo >Vì thế, họ trông chờ tin quan như trời hạn trông mưa .Mắt còn trông đợi nhưng lòng thì đã rõ:

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Lòng yêu nước không độc quyền của ai. Huống chi, với những người nông dân chân chất, khi “mùi tinh chiến vấy vá đã ba năm” thì họ “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Vì thế, dù là dân ấp, dân lân, trong tay chỉ còn một tầm vông, họ đã sẵn sàng xả thân vì nghĩa cả:

Hoả mai đánh bằng rơm con cúi , cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc nhằn quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới ,coi giặc như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to ,xô cửa xông vào ,liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang ,người chém ngược ,làm cho mã tà ,ma lí hồn kinh; bọn hè trước ,lũ ó sau ,trối kệ tàu thiếc ,tàu đồng đung nổ.

Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức. Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tự giác đúng lên ,không có ai tổ chức ( ai đòi ,ai bắt ) ,chẳng có binh thư ,binh pháp .còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản ,có quy mô , quy củ. Họ thất thế khi xung trận mà ngoài cật có một manh áo vải ,trong tay cầm ngon tầm vông ,còn kẻ thù lại có tàu sắt tàu đồng , đạn nhỏ , đạn to. Song chí căm thù ,lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ ,liều mình như chẳng có ai. Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động ấy. Nhưng nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đó:

Một giấc sa trường rằng chữ hạnh ,nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm trao mộ.

Những nghĩa sĩ nông dân trở thành “những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang” ( Phạm Văn Đồng ) .Hình tượng người nghĩa sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam đã mang hình dáng đầy bi tráng. Nó như một tượng đài sừng sững tạc vào không gian lẫn với thời gian để nói với muôn đời rằng: Thác mà trả nước non rồi nợ ,danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ ,tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

Sự gắn bó ,lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiểu ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc thật bi tráng .Hình tượng ấy sức nặng của một thời đại “nước mắt anh hùng lau chẳng ráo” và tấm lòng yêu thương bi thiết của nhà thơ mù đất Đồng Nai – Gia Định .Những người anh hùng “sống đánh giặc , thác cũng đánh giặc”. Còn nhà thơ của họ đã dựng lại tượng đài ấy “nghìn năm” trong ký ức tâm hồn của người đời bằng văn chương.

Bài tham khảo 3:

“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là đỉnh cao sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và cũng là biểu tượng rõ ràng nhất, sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước thương dân của ông. Với lòng cảm thương, khâm phục chân thành, nhà thơ đã xây dựng nên một “tượng đài nghệ thuật” bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

Có thể nói bài văn tế là khúc bi tráng về người nghĩa sĩ nồng dân xả thân vì sự sống còn của đất nước. Người nồng dân nghèo khổ chân chất “côi cút làm ăn toan lo nghèo khổ đã tự nguyện đứng lên gánh vác việc nước lớn lao và cực kì gian khổ: đánh giặc. Trước tội ác tày trời của giục Pháp, trước thái độ nhu nhược đến hèn nhát của triều đình, họ không thổ bưng tai bịt mắt làm ngơ. Trách nhiệm công dân thúc đẩy họ cầm vũ khí chiến đấu:

“Nào đợi ai đồi, ai hắt, phe tì này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thêm trôn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.

Họ không phải là lính chính quy của triều đình mà chỉ là “dân ấp dân lân, mến nghĩa tâm quản chiêu mộ”. Đó là cái nghĩa vì nước quên mình, dám đánh giặc, dám hi sinh. Điều này hoàn toàn đối lập với lũ quan quân triều đình tham sống sợ chết. Vì lẽ đó mà hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân càng thêm thương, thêm quý.

Không cần lệnh quan trên, không cần chờ trang bị, cũng chẳng đợi tập rèn, họ lao vào cuộc chiến đấu sống chốt với kẻ thù bằng một tinh thần dũng cảm hiếm có: “Kẻ dám ngang, người chém ngược, làm cho mũ tà, ma nỉ hồn kinh. Bọn hè trước, lù ó sau, trôi kệ tàu thiếc, tâu đồng súng nổ”. Tinh thần ấy khiến cho các vũ khí thô sơ trong tay họ trở lên hữu hiệu:”Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia – Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rơi đầu quan hai nọ”.

Cái dũng cảm trong chiến đấu đã khắc phục cái yếu kém trong trang bị. Giữa bức tranh hoành tráng của cuộc chiến đấu, nổi bật hình bóng lồng lộng, hiên ngang của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.

Trong văn thơ ngày xưa của ta có không nhiều những trang miêu tả một trận chiến đấu mà thường là lược tả một vài nét. ở bài văn tế này, nhà thơ đã tả bằng những chi tiết rất chân thực, sống động cho nên không khí hào hùng gần gũi, quen thuộc với cuộc sống, với mọi người. Sức mạnh của nghệ thuật đã biến những hình ảnh tầm thường thành những hình ảnh tượng trưng cho người nghĩa quân nông dân quanh năm chân lấm tay bùn, vậy mà khi lòng nghĩa cháy lên, họ đã biến thành người chiến sĩ cứu nước anh hùng. Hình bóng họ làm chủ chiến trường, nổi lên trên nến trời, che lấp cả khổng gian, lồng lộng như một tượng đài kì vĩ.

Cảm xúc chủ đạo của vài văn là cảm xúc bi tráng, lời văn rắn rỏi, mãnh liệt, toàn là những hành động được thể hiện bằng những động từ mạnh mẽ, âm điệu sôi sục, dồn dập. Nghệ thuật đối đã phát huy được hiệu quả cao nhất của nó… Tất cả hợp thành một âm điệu chiến trận hào hùng, phấn khích. Thật là một thiên anh hùng ca tuyệt diệu. Ngòi bút tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của người nghĩa sĩ nông dân; với tư tưởng cực kì lớn lao mà tác giả đã phát hiện ra trong hành động giết giặc cứu nước của họ.

Gần ba chục nghĩa sĩ nông dân bỏ mình trong cuộc chiến đấu ác liệt và không cân sức. Cải chết bi tráng của họ khiến con người, cây cỏ trên một miền quê đều thương tiếc: “Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng – Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hơi hàng luỵ nhỏ”. Người chết vì nước non, vì đồng bào, làm sao không xúc động đến đồng bào, non nước ? “Tượng đài nghệ thuật” vé người nghĩa sĩ nồng dân mang tính chất bi tráng. Nó được dựng lên trong khói lửa chiến trận, trong tiếng thét xung phong, và cả trong nước mắt, trong tiếng khóc thống thiết của nhà thơ và của nhân dân. Đây là thành công nghê thuật xuất sắc của nhà thơ mù yêu nước Nguyền Đình Chiểu. Bài văn tế như một cái bia, cái mốc, một lâu đài vinh dự cho người nông dân, cho nhân dân lao động Nam Bộ muôn thuở sáng ngời.

Bài tham khảo 4:

Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc. Cuộc đời ông phải trải qua nhiều bi kịch đau khổ và bất hạnh. Có lẽ vì vậy mà hơn ai hết ông càng cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta. Năm 1859 giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé chiếm thành Gia Định, ông phải vào quê vợ ở Thanh Ba, Cần Giuộc lánh tạm. Về phía thực dân Pháp sau khi chiếm được thành Gia Định chúng bắt đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn công ra các vùng lân cận. Cần Giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc Pháp tràn đến. Những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đã đứng dậy đấu tranh. Họ gia nhập nghĩa binh, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. Trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. Những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Đỗ Quang, tuần phủ Gia Định giao cho Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế đọc tại buổi truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đêm ngày 16-12-1861. Với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bài văn tế không những thể hiện được tình cảm xót thương vô hạn PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ cần Giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh Tây.

Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ…

Khi Tổ quốc lâm nguy, khắp đất nước đều rền vang tiếng súng. Chính từ sự gian nguy, đau thương đó, tình yêu đất nước của những người nông dân bình thường mới được thể hiện, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn trong họ mới được bày tỏ cùng trời đất.

Tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổ quốc của những người nông dân bình dị càng được thể hiện một cách rõ rệt và sâu sắc hơn khi tác giả đã liên tục dùng biện pháp so sánh đối lập trong các câu văn tiếp sau.

Nhớ lính xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó…

Trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. Họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. Trong cuộc sống, họ có nỗi lo toan “miếng cơm manh áo” giản dị đời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nhà nông: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. Họ chưa biết đến “cung ngựa”, “trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. Những người nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen chiến trận, chưa được luyện rèn, chỉ vì lòng yêu chính ghét tà mà đứng lên đánh giặc.

Khi mà “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”, họ ngóng trông mệnh lệnh của triều đình: “trông tin quan như trời hạn trông mưa”.

Thì ra cái bi kịch xót xa là ở chỗ này: triều đình nhu nhược, không hiểu được lòng dân yêu nước. Lòng căm thù giặc của những người nông dân thì không thể kiềm chế:

Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.

… Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.

Hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. Lòng yêu đất nước tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã khiến cho họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh. Vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính từ lòng căm thù giặc sục sôi. Chính lòng căm thù giặc đã biến thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.

Nào đợi ai đòi, ai bất, phen này xin ra sức đoạn kinh:
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.

Trong những tác phẩm phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân khi phải đi làm lính biên thú phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua, họ ra đi với tâm trạng và thái độ “bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” thì ở đây, người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giác, tự nguyện đứng lên chiến đấu để bảo vệ giang sơn, tổ quốc, ấy là nét đẹp bản chất nhất trong hành động của người nông dân – nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đến đây không chỉ vẻ đẹp trong tâm hồn mà ngay cả vẻ đẹp trong hành động của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước cũng đã được Nguyễn Đình Chiểu khắc họa lên một cách rõ rệt. Từ cái động lực tinh thần tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. Họ đã hành động, đứng lên chống giặc ngoại xâm. Không chờ bày bố mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào dại mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ”. Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm khiến cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. Những người nghĩa sĩ dường như đóng vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đối mặt với kẻ thù lớn mạnh với “đạn nhỏ, đạn to”, “tàu thiếc, tàu đồng” với đội quán xâm lược nhà nghề, vậy mà vũ khí để họ dùng chống lại chỉ là “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay” và chỉ là những “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”. Thử hỏi rằng đem những thứ đó ra đối chọi với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. Cái sự thật phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy. Tấn bi kịch này đã đưa đến cái họa mất nước kéo dái cả thế kỉ.

Nhưng cũng chính từ cái tấn bi kịch này mà đà làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước. Bằng sự ngoan cường, lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên được những điều phi thường, chính họ đã cất lên dược bản anh hùng ca chiến tranh của dân tộc. Bất chấp sự hiểm nguy, bất chấp sự chênh lệch, sự đối lập của hoàn cảnh chiến đấu, họ vẫn quyết chiến và quyết thắng, lấy tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp lại sự thiếu hụt, chênh lệch của mình với kẻ thù. Hoàn cảnh chiến đấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ chiến đâu bằng chinh tinh thần sự quyết chiến không sợ hi sinh nên hiệu quả chiến đấu lại vô cùng lớn.

Chỉ với những vũ khí thô sơ như:

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
Gươm đeo dùng bằng lười dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh..

Chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. Hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ đẹp rực rỡ hào quang của chủ nghĩa yêu nước, dường như đã làm lu mờ đi cái thời kì đen tối của lịch sử mất nước hồi nửa cuối thế kỉ XIX.

Cảm xúc chủ đạo của bài Văn tế là cảm xúc bi tráng, lời văn rắn rỏi, âm điệu sồi sục, dồn dập. Nghệ thuật đối đã phát huy hiệu quả cao nhất của nó. Tất cả hợp thành một âm hưởng chiến trận hào hùng, phấn khích của một thiên anh hùng ca tuyệt diệu. Ngòi bút tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của người nghĩa sĩ nông dân, với những tư tưởng cực kì lớn lao mà tác giả đã phát hiện ra trong hành động tự nguyện giết giặc cứu nước của họ.

Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khác nên hình tượng những người nghĩa sĩ nông dân hào hùng mà bi tráng, tượng trưng cho tinh thần yêu nước, căm thù giặc ngoại xâm của cha ông ta. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cả một bi kịch lớn của dân tộc – bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tôi của dân tộc ta – thời kì một trăm năm Pháp thuộc. Nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung vẫn ngời sáng bởi cái lí tưởng cao đẹp của nghĩa sĩ cần Giuộc họ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, vì dân tộc.

Bài tham khảo 5:

Trong văn học Việt Nam, cho đến Nguvễn Đình Chiểu, chưa có một hình tượng nhân dân nào chân thực và cảm động hơn người nghĩa sĩ trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ông. Nói đúng ra, trước Nguyễn Đình Chiểu, con người bình thường cũng xuất hiện trong văn chương Việt Nam. Tuy nhiên, đó hoặc là những ngư phủ, tiều phu hình bóng thấp thoáng, khi xa khi gần trong thơ Bà Huyện Thanh Quan, hoặc là đám đông lố nhố, hằng ngày là cục đất củ khoai, khi cỏ dịp trở nên những “kiêu binh” lỗ mãng trong Hoàng Lê nhất thống chí.

Người nông dân xuất hiện trong tác phẩm Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn khác hẳn. Họ thật sự là những người bình thường, là dân ấp, dân lân, ngoài cật có một manh áo vải. Bản tính lại hiền lành, chất phác, quanh năm suốt tháng côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó. Bên trong lũy tre làng, họ chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ, thành thục với nghề nông trang: Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm. Nói như nhà thơ Thanh Thảo sau này, “họ lấm láp sình lầy ấy đã bước vào thơ Đồ Chiểu. Đành rằng nhà thơ Nguyễn Đỉnh Chiểu đã có tấm lòng sáng để phát hiện ra họ, nhưng trước hết bởi dù không áo mão cân đai phàm hàm văn võ, họ vẫn để lại những vệt bùn làm vinh dự cho thơ”. Đó chính là tấm lòng yêu nước, trọng nghĩa của người nông dân.

Khi nghe tin quân giặc đến, dù là dân thường nhưng những người nông dân vẫn lòng đầy sốt ruột. Trong xã hội xưa, những chuyện quốc gia đại sự trước hết là việc của quan. Dân nghe theo quan mà làm dân. Dân nhìn thấy quan mà theo. Vì thế, họ trông chờ tin quan như trời hạn trông mưa. Mắt còn trông đợi nhưng lòng thì đã rõ:

Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.

Lòng yêu nước không độc quyền của ai. Huống chi, với những người nông dân chân chất, khi mùi tinh khiết vấy vá đã ba năm thì họ ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ. Vì thế, dù là dân ấp, dân lân, trong tay chỉ còn một tầm vông, họ đã sẵn sàng xả thân vì nghĩa cả:

Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ni hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ.

Cuộc đối đầu một mất một còn giữa những người nông dân yêu nước với kẻ thù là cuộc đối đầu không cân sức. Họ thất thế ngay từ ban đầu khi tự giác đứng lên, không có ai tổ chức (ai đòi, ai bắt), chẳng có binh thư, binh pháp. Còn quân giặc thì chuẩn bị bài bản, có quy mô, quy củ. Họ thất thế khi xung trận mà ngoài cật có một manh áo vải, trong tay cầm ngọn tầm vông, còn kẻ thù lại có tàu sắt, tàu đồng, đạn nhỏ, đạn to. Song chí căm thù, lòng yêu nước đã khiến những người nông dân trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ, liều mình như chẳng có ai. Ai cũng biết cái giá cuối cùng của hành động ấy. Nhưng nghĩa sĩ nông dân càng biết rõ điều đó:

Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm trao mộ.

Những nghĩa sĩ nông dân trở thành “những anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang’’ (Phạm Văn Đồng). Hình tượng người nghĩa sĩ chân đất lần đầu tiên xuất hiện trong văn học Việt Nam đã mang hình dáng đầy bi tráng. Nó như một tượng đài sừng sững tạc vào không gian lẫn với thời gian để nói với muôn đời rằng: Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.

Sự gắn bó, lòng yêu thương và cảm phục đã khiến Nguyễn Đình Chiếu ghi tạc vào thơ văn mình hình tượng người nghĩa sĩ cần Giuộc thật bi tráng. Hình tượng ấy mang sức nặng của một thời đại “nước mắt anh hùng lau chẳng ráo” và tấm lòng yêu thương bi thiết của nhà thơ mù đất Đồng Nai – Gia Định. Những người anh hùng “sống đánh giặc – thác cũng đánh giặc”. Còn nhà thơ của họ đã dựng lại tượng đài ấy “nghìn năm” trong kí ức tâm hồn của người đời bằng văn chương.


4. Những cảm nhận sâu sắc của anh (chị) qua tìm hiểu cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu

Dàn bài:

Mở bài: Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần nghị luận.

(Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu cũng đã để lại cho chúng ta không ít những cảm xúc chân thành, xúc động. Nhưng điều mà chúng ta cảm nhận sâu sắc nhất qua sự nghiệp thơ văn của ông chính là sự thống nhất cao độ, tuyệt đẹp giữa lí tưởng sống và sự nghiệp thơ văn. Ở Nguyễn Đình Chiểu, văn với người là một. Thơ văn ông thể hiện rõ chân dung tinh thần của ông. Bởi vậy, đọc thơ văn của nhà thơ mù xứ Đồng Nai ta thấy rõ y chí kiên cường của người chiến sĩ, nhà thơ đầy khí tiết đất Gia Định, ….)

Thân bài:

♦ Cuộc đời:

– Suốt cuộc đời mình, dù gặp nhiều bất hạnh trắc trở trên đường đời, song con người ấy vẫn vượt lên trên mọi hoàn cảnh, vẫn giữ trọn được đạo lí, cốt cách cao đẹp; đứng về phía chân lí, đấu tranh chống bọn bất nhân bất nghĩa.

– Trước khi Pháp xâm lược, Nguyễn Đình Chiểu dùng ngòi bút để chở đạo và “đâm mấy thằng gian”. Khi Pháp xâm lược nhà thơ tiếp tục nêu cao tinh thần chiến đấu vì nghĩa bằng mấy ngòi bút và đạo đức sáng ngời của mình.

– Pháp đánh chiếm Nam Bộ, không thể trực tiếp đánh giặc bằng gươm, ông đã đánh giặc bằng mưu trí, bàn kế đánh giặc với các lãnh tụ nghĩa quân (Trương Định, Đốc binh là). Cuộc khởi nghĩa của các nghĩa quân bị dìm trong biến máu, giặc chiếm hết Nam Bộ, Nguyễn Đình CHiểu đã từ chối sự mua chuộc của kẻ thù xâm lược, kiên kiết giữ vững khí tiết. Không dừng lại ở đó nhà thơ thêm một lần nữa tiếp tục gương cao tinh thần chiến đấu, dùng ngòi bút sắc bén của mình để bênh vực cho lẽ phải, cho chính nghĩa.

♦ Sự nghiệp thơ văn:

– Trước khi Pháp xâm lược, cụ Đồ Chiểu đã thể hiện rõ tư tưởng, đạo sống của mình qua các tác phẩm Lục Vân Tiên. Tác giả đã ca ngợi những con người nghĩa hiệp vì nghĩa mà xả thân đánh cướp, trừ gian như Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, Hớn Minh… Tôn vinh những con người có tấm lòng chung thủy, có nghĩa, có tình như Kiều Nguyệt Nga. Mặt khác, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã lên án bọn người bất nhân bất nghĩa như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, cho con Võ Thể Loan…

– Giặc Pháp biến Nam Bộ thành mảnh đất nô lệ, đau thương nhà thơ đã thể hiện rõ khí chí của người con trung nghĩa bằng lòng căm thù giặc sâu sắc, hết lời ngợi ca những tấm gương xả thân vì dân tộc: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế Trương Định, Chạy Giặc…

→ Dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào, Nguyễn Đình Chiểu vẫn một lòng vì nghĩa, luôn nêu cao tấm gương đạo đức sáng ngời. Ông xứng đáng là ngôi sao sáng trong nền văn nghệ dân tộc như lời bác Phạm Văn Đồng khẳng định: “Trên trời có vì sao có ánh sáng khác thường… con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng nhìn mới thấy càng sáng” (Bài “Nguyễn Đình Chiểu ngôi sao sáng trong nền văn nghệ dân tộc”).

Kết bài:

– Khẳng định giá trị về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.

– Có thể liên tưởng, mở rộng vấn đề.

Bài tham khảo:

Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ XIX, một thời kì loạn lạc và đau thương của dân tộc khi Tổ quốc Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược và thống trị.

Ông sinh năm 1822 tại quê mẹ: làng Tân Thới, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Xuất thân trong một gia đình nhà nho, ông được nuôi dưỡng và giáo dục theo truyển thống nhân nghĩa và những phẩm chất tốt đẹp nhất của người nông dân Nam Kì như hiếu thảo, giàu nghĩa khí và tình thương người bao la.

Năm 21 tuổi, ông thi đỗ tú tài tại trường thi Gia Định. Năm 1847, ông ra Huế để chuẩn bị dự kì thi Hương năm Kỉ Dậu (1849), nhưng rồi nhận tin sét đánh – người mẹ thân yêu qua đời (10-12-1848), Nguyễn Đình Chiểu phải bỏ thi, trở về Gia Định chịu tang mẹ, Trên đường trở về quê, vì quá đau buồn, thương khóc mẹ nhiều mà lâm bệnh, rồi mắt ông bị mù.

Hoạ vô đơn chí: Nguyễn Đình Chiểu bị ốm đau tật bệnh, mắt bị mù, cảnh gia đình sa sút, vị hôn thê bội ước… Ông đóng cửa cư tang mẹ cho đến năm 1851; sau đó, ông mở trường dạy học, làm thuốc để cứu người và sáng tác thơ văn thể hiện lí tưởng nhân nghĩa cao đẹp: “Lòng đạo xin tròn một tấm gương”.

Năm 1859, thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định, rồi lần lượt đánh chiếm ba tỉnh miền Đông rồi ba tỉnh miền Tây Nam Kì. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nhiều bài thơ, bài văn tế ngợi ca những anh hùng đánh Pháp như Trương Công Định, Phan Công Tòng,… những nghĩa sĩ áo vải “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc “. Ông đã nêu cao tấm gương yêu nước, tinh thần trung nghĩa bất khuất sắt son sáng chói.

Ngày 3-7-1888, Nguyền Đình Chiểu qua dời. Đám tang của ông đã có hàng ngàn bà con, cỡ bác, học trò… tới viếng và đưa tiễn; cánh đồng Ba Tri trắng xoá khăn tang.

Nguyễn Đình Chiểu để lại nhiều thơ văn bằng chữ Nôm rất độc đáo và đặc sắc. Trước 1859, có hai truyện thơ: “Truyện Lục Vân Tiên ” và “Đương Từ – Hà Mậu “, sau năm 1859, có nhiều bài thơ như: “Chạy giặc “, 12 bài điếu Trương Công Định, 10 bài thơ điếu Phan Công Tòng, 3 bài văn tế: “Văn tế” nghĩa sĩ cần Giuộc “, “Văn tế Trương Công Định” “Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh “, và truyện thơ “Ngư Tiểu y thuật vấn đáp”.

Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu sáng ngời lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa. Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga là biểu tượng của lòng trung hiếu, tiết hạnh; Hớn Minh, Vương Từ Trực giàu lòng nghĩa khí, thuỷ chung trong tình bạn; ông Quán, ông Ngư, ông Tiều, Lão bà, Tiểu đổng… quên mình làm việc nghĩa, hết lòng yêu thương những kẻ khốn cùng, đau khổ.

Truyện thơ “Ngư Tiểu y thuật vấn đáp” có nhiều cảnh cảm đông, nhiều câu thơ vô cùng thấm thía về đạo lí làm người:

Giúp đời chẳng vụ tiếng danh,
Chẳng màng của lợi, chang ganh ghẻ tài.
Đứa ăn mày cũng trời sinh,
Bệnh còn cứu được, thuốc đành cho không.
Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,
Lòng dạo xin tròn một tấm gương.

Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa hàm chứa trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là phần tích cực nhất của đạo nho, là truyền thống yêu nước, yêu nhà, yêu người của dân tộc ta, là tinh thần hào hiệp, nghĩa khí của người nông dân Nam Kì. Vì thế, thơ văn Đồ Chiểu đã trở thành hơi thở, nhịp sống và chí nguyện của đồng bào Nam Kì trong gần một thế kỉ rưỡi.

Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là bài ca yêu nước và tự hào dân tộc.

Bài thơ “Chạy giặc” mở đầu cho dòng văn thơ yêu nước của dân tộc ta trong thế kỉ XIX. Nhà thơ đau cho nỗi đau của nhân dân lầm than khi “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây”; sôi sục căm thù tội ác tày trời của quân giặc cướp:

“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dác bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đổng Nai tranh ngói nhuốm màu mảy.”

Ba bài văn tế đã dựng lên những hình tượng kì vĩ về người anh hùng đánh giặc Pháp xâm lược. Đó là Trương Công Định “Giúp đời dốc trọn trang nam tử”; mỗi thôn ấp, mỗi dòng kênh còn lưu giữ bao chiến tích hào hùng:

“Trong Nam tên họ nổi như cồn,
Mấy trận Gò Công để tiếng đồn.
Dấu đạn hãy chìm tàu bạch quỷ,
Hơi gươm thêm rạng thẻ hoàng môn.”

Đó là Phan Công Tòng xây đồn đắp luỹ đánh Pháp mấy năm dài, nêu cao lòng trung nghĩa và khí phách anh hùng, bất khuất:

“Viên đạn nghịch thần reo trước mặt,
Lưỡi gươm địch khái nắm trong tay “
“Tinh thần hai chữ phau sương tuyết,
Khí phách ngàn thu rỡ núi non.”

“Văn tế nghĩa sĩ Cấn Giuộc” là kiệt tác văn chương của Nguyễn Đình Chiểu để lại cho đời. Các nghĩa sĩ là những dân ấp, dân lân, “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Họ sống cuộc đời bình dị, cần lao “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ Lòng căm thù giặc như ngọn lửa ngùn ngụt bốc cao, họ quyết không dung tha quân cướp nước:

“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ!”

Chỉ có một lưỡi dao phay làm gươm, một gậy tầm vông làm giáo, “hoả mai đánh bằng rơm con cúi” thế mà các nghĩa sĩ đã “chém rớt đầu quan hai nọ”, đã “dốt xong nhà dạy đạo kia”, đã “đâm ngang chém ngược làm cho mã tà, ma nỉ hồn kỉnh! ”

Khí phách của các nghĩa sĩ vô cùng hiôn ngang lẫm liệt, sáng mãi đến ngàn thu: “Song đánh giặc, thác cũng dành giặc, linh hồn theo giúp cơ bỉnh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia”. Tượng đài người nghĩa sì mà nhà thơ dựng lên thật vô cùng bi tráng, vì đó là những anh hùng thất thế mà dũng mãnh, hiên ngang, “tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ

Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu đã gieo vào lòng nhân dân ta một niềm tin chói sáng:

“Chừng nào Thánh để ân soi thấu,
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.”
“Sau trời thúc quỷ tan mây,
Sông trong biển lặng, mắt thầy sáng ra.”
“Bao giờ nhật nguyệt vầy gương sáng,
Bốn biển âu ca hiệp một nhà.”

Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu rất đa dạng, phong phú và đậm đà. Dưới ngòi bút nghệ thuật của ông, thơ lục bát, thơ thất ngôn, văn tế, thể loại nào cũng đặc sắc, độc đáo. Nếu truyện thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa bình dị thì văn tế lại bi hùng, thống thiết, trữ tình lay động hồn người:

“Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều;
Não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.”

(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)

Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt, thương đấng anh hùng gặp bước gian truân;
Đất Gò Công, cây cỏ ủ ê, cám niềm thần tử hết lòng trung ái”

(Văn tế Trương Công Định)

“Ôi! Trời buông nàn quỷ trắng mây năm;
Người uống hận suối vàng lắm bực.”

(Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh)

Nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Đình Chiểu trong truyện thư mang đậm màu sắc dân gian, binh dị mà gợi cảm, làm cho người nghe, người đọc dễ nhớ và nhớ mãi: “Truyện nàng sau hãy còn lâu – Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra”, hoặc: “Đoạn nầy đến thứ Nguyệt Nga – Hà Khê phủ ấy theo cha học hành” v.v…

Cảnh vật, câu chuyện, con người và ngôn ngữ trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đều mang hương vị và sắc thái Nam Bộ. Nhiều câu ví, câu ca vùng Ba Tri, Đồng Nai, Bến Nghé, Gò Công… như đã nhập hồn vào thơ văn Đồ Chiểu. Tính nhân dân sâu sắc, tính Nam Bộ đậm đà là bản sắc, giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.

Có thể dẫn ra đôi ba câu thơ quá mộc mạc, nhưng Đồ Chiểu mãi mãi là nhà thơ lớn của nhân dân ta, đất nước ta. “Đời song và sự nghiệp của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng của văn học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá và tư tưởng” (Phạm Văn Đồng).


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Viết bài làm văn số 3: Nghị luận văn học Ngữ văn 11 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các em làm bài Ngữ văn thật tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com