Soạn bài Hồi trống Cổ Thành sgk Ngữ văn 10 tập 2

Nội dung bài Soạn bài Hồi trống Cổ Thành sgk Ngữ văn 10 tập 2 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, phân tích, cảm nhận, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn lớp 10 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn và ôn thi THPT Quốc gia.


HỒI TRỐNG CỔ THÀNH

(Trích hồi 28 – Tam Quốc diễn nghĩa)

La Quán Trung

TIỂU DẪN

Tác giả La Quán Trung (1330-1400?) tên Lan Bản, hiệu Hồ Hải tản nhân, người vùng Thái Nguyên thuộc tỉnh Sơn Tây cũ. Ông lớn lên vào cuối thời Nguyên đầu thời Minh, tính tình cô độc, lẻ loi, thích một mình ngao du đây đó. Khi Minh Thái Tổ đánh đuổi được quân Mông Cổ, thống nhất đất nước, ông chuyên tâm sưu tầm và biên soạn dã sử. Ngoài Tam quốc diễn nghĩa, ông còn viết Tùy Đường lưỡng triều chí truyện, Tấn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa, Bình yêu truyện,…

La Quán Trung là người đầu tiên đóng góp xuất sắc cho trường phái tiểu thuyết lịch sử thời Minh – Thanh ở Trung Quốc. Tam quốc diễn nghĩa có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Tam quốc diễn nghĩa ra đời vào đầu thời Minh (1368-1644), gồm 120 hồi, kể chuyện một nước chia ba gọi là “cát cứ phân tranh” (1) trong gần 100 năm của nước Trung Quốc thời cổ (thế kỉ II, III). Đó là cuộc phân tranh giữa ba tập đoàn phong kiến quân phiệt: Ngụy – do Tào Tháo cầm đầu, chiếm giữ phía bắc từ Trường Giang trở lên nên gọi là Bắc Ngụy; Thục – do Lưu Bị cầm đầu, chiếm giữ phía Tây Nam nên gọi là Tây Thục; Ngô – do Tôn Quyền cầm đầu, chiếm giữ phía Đông Nam nên gọi là Đông Ngô.

Tam quốc diễn nghĩa phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa mà đường nét nổi bật là “cát cứ phân tranh”, cá lớn nuốt cá bé, chiến tranh liên miên, nhân dân đói khổ, điêu linh. Trong một thời kì như vậy, nhân dân mong muốn hòa bình, ổn định, thống nhất. Nguyện vọng đó được gửi gắm vào một triều đình có ông vua biết thương dân, có văn võ bá quan biết thực hiện đường lối “nhân chính”. Ông vua đó là Lưu Bị, triều đình đó là nhà Thục. Nhà Thục có vua Lưu Bị dòng dõi nhà Hán, biết thương dân và vì dân, tượng trưng cho chữ nhân, có các mưu sĩ giỏi nhu Khổng Minh, tượng trưng cho chữ trí, lại có năm tướng giỏi (ngũ hổ tướng) như Quan Công, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung, tượng trưng cho chữ dũng. Họ lại trên dưới một lòng vì sự nghiệp chung mà biểu tượng là ba anh em kết nghĩa Lưu, Quan, Trương – vua tôi mà là anh em, thề sống chết bên nhau vì sự nghiệp khôi phục nhà Hán. Đối lập với họ là phía Tào Tháo và triều đình Tào Ngụy.

Đoạn trích thuộc hồi 28, trước đó ba anh em Lưu, Quan, Trương náu mình dưới trướng Tào Tháo. Hiểu được bản chất gian hùng của Tào Tháo, họ tìm cách bỏ đi. Tháo cho quân đuổi đánh, ba anh em thất tán mỗi người một ngả. Quan Công vì phải hộ tống hai chị dâu (vợ Lưu Bị) nên tạm hàng Tào Tháo với điều kiện hàng Hán chứ không hàng Tào (vua Hán đang bị Tào khống chế); hễ biết tin anh ở đâu là sẽ đi ngay. Tào Tháo tìm cách thu phục Quan Công: ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn, lại ban thưởng chức tước, vàng bạc, mĩ nữ,… Nhưng Quan Công “thân tại Tào doanh, tâm tại Hán” – vừa nghe tin Lưu Bị đang ở bên Viên Thiệu là lập tức trả hết ấn tín, vàng bạc châu báu, lên ngựa đi tìm anh. Trên đường đi, bị các tướng Tào ngăn cản, Quan Công vung long đao chém luôn sáu tướng, vượt năm cửa quan. Đến Cổ Thành, gặp được Trương Phi, vui mừng khôn xiết. Nào ngờ…


VĂN BẢN

/…/ Châu Thương theo Quan Công sang Nhữ Nam. Đi được vài ngày, trông xa xa trên đỉnh núi có một tòa thành. Quan Công hỏi người địa phương là thành nào. Người địa phương thưa:

– Đây gọi là Cổ Thành. Mấy tháng trước, có một tướng, tên gọi là Trương Phi, dẫn vài mươi quân kị (1) đến, đuổi quan huyện đi, chiếm lấy thành, mộ quân tậu ngựa, chứa cỏ tích lương (2) nay có đến ba nghìn quân mã. Chung quanh đây không ai dám chống lại.

Quan Công nghe nói, mừng rỡ vô cùng:

– Em ta từ khi thất tán (3) ở Từ Châu, lâu nay vẫn không biết ở đâu, ai ngờ lại hóa ra ở đây!

Liền sai ngay Tôn Càn vào thành báo tin, bảo Trương Phi ra đón hai chị.

Trương Phi từ khi trốn vào núi Mang Đãng ở hơn một tháng, một hôm ra ngoài nghe ngóng tin tức Huyền Đức, chợt đi qua Cổ Thành, vào huyện vay lương thực. Quan huyện không cho vay. Phi nổi giận đuổi quan huyện đi, cướp lấy ấn thụ (4), chiếm thành, tạm lấy chốn nương thân.

Hôm ấy Tôn Càn theo lệnh Quan Công vào thành ra mắt Trương Phi. Thi lễ (5) xong, nói chuyện Huyền Đức đã bỏ Viên Thiệu sang Nhữ Nam, Vân Trường thì ở Hứa Đô, vừa đưa hai phu nhân (6) đến đây. Rồi mời Trương Phi ra đón.

Phi nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu (7) lên ngựa, dẫn một nghìn quân, đi tắt ra cửa bắc. Tôn Càn thấy lạ, nhưng không dám hỏi cũng phải theo ra thành.

Quan Công trông thấy Trương Phi ra, mừng rỡ vô cùng, giao long đao (8) cho Châu Thương cầm, tế ngựa lại đón. Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công.

Quan Công giật mình, vội tránh mũi mâu, hỏi:

– Hiền đệ cớ sao như thế, há quên nghĩa vườn đào ru?

Trương Phi hầm hầm quát:

– Mày đã bội nghĩa (9), còn mặt nào đến gặp tao nữa?

Quan Công nói:

– Ta thế nào mà bội nghĩa?

Trương Phi nói:

– Mày bỏ anh, hàng Tào Tháo, được phong hầu tứ tước (10), nay lại đến đây đánh lừa tao! Phen này tao quyết liều sống chết với mày!

Quan Công nói:

– Chuyện này em không biết, ta cũng khó nói. May có hai chị ở đây, em đến mà hỏi.

Hai phu nhân nghe thấy thế, vội vàng vén màn xe, gọi:

– Chú Ba sao lại thế?

Phi nói:

– Xin hai chị hãy thong thả, để tôi giết thằng phụ nghĩa này đã, rồi sẽ mời hai chị vào thành.

Cam phu nhân nói:

– Khoan đã chú Ba, khoan đã! Chớ hấp tấp mà làm càn bây giờ, chú Hai không biết tin tức mọi người nên phải tạm nương mình bên Tào. Nay đã biết anh nhà ở Nhữ Nam, không ngại hiểm trở, đưa bọn ta đến đây. Chú không được nghĩ lầm như thế!

Mi phu nhân cũng nói:

– Chú Hai trước ở Hứa Đô, thật là bất đắc dĩ.

Phi nói:

– Hai chị bị lừa dối đấy. Trung thần (11) thà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu (12) lại thờ hai chủ?

Quan Công nói:

– Hiền đệ đừng nói vậy, oan uổng quá!

Tôn Càn nói:

– Vân Trường đến đây là cốt để tìm tướng quân.

Trương Phi mắng:

– Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây tất là để bắt ta đó!

Quan Công nói:

– Nếu ta đến bắt em, tất phải đem theo quân mã chứ!

Trương Phi trỏ tay đằng xa, nói:

– Không phải quân mã là gì kia?

Quan Công ngoảnh lại, quả nhiên thấy bụi bay mù trời, một toán quân mã kéo đến, cờ hiệu phấp phới chính là cờ Tào. Trương Phi nổi giận nói:

– Bây giờ còn chối nữa thôi?

Rồi múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công. Quan Công vừa đỡ vừa can:

– Hiền đệ hãy khoan, xem ta chém tên tướng ấy, để tỏ lòng thực của ta!

Trương Phi nói:

– Nếu mày quả có lòng thực, ta đánh ba hồi trống, mày phải chém được tên tướng ấy.

Quan Công nhận lời.

Một lát, quân tào kéo đến, Sái Dương đi đầu, vác đao tế ngựa xông đến, quát to:

– Mày giết cháu ngoại tao là Tần Kì, lại trốn đến đây. Tao phụng mệnh Thừa tướng đến bắt mày.

Quan Công chẳng nói một lời, múa long đao xô lại, Trương Phi thẳng cánh đánh trống. Chưa dứt một hồi, đầu Sái Dương đã lăn dưới đất. Quân Tào chạy tan tác. Quan Công bắt một tên lính cầm cờ hiệu hỏi chuyện đầu đuôi. Tên lính thưa:

– Sái Dương nghe tin tướng quân giết cháu ngoại là Tần Kì, nổi giận đùng đùng, muốn sang Hà Bắc đánh nhau với tướng quân, Thừa tướng (13) không cho đi, nhân sai sang Nhữ Nam đánh Lưu Tích, không ngờ đi đến đây lại gặp tướng quân.

Quan Công sai tên lính đến kể chuyện ấy cho Trương Phi nghe. Phi hỏi kĩ việc ở Hứa Đô. Tên lính kể hết nông nỗi từ đầu đến cuối. Bấy giờ Phi mới tin anh là thực /…/ Phi mời hai chị vào thành.

Vào đến nhà, hai bà mới kể lại những việc Quan Công đã trải qua. Trương Phi nghe hết chuyện, rỏ nước mắt khóc, thụp lạy Vân Trường (14)…

Theo bản dịch của PHAN KẾ BÍNH, BÙI KỈ hiệu đính
(Tam quốc diễn nghĩa, NXB Phổ thông, Hà Nội, 1959)

Dưới đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Hồi trống Cổ Thành sgk Ngữ văn 10 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:


HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

Bố cục: 2 phần

– Phần 1: “từ đầu…phải đem quan mà theo chứ”: Quan Công gặp Trương Phi, nghi ngờ anh đã phản bội lời thề kết nghĩa.

– Phần 2: còn lại: Quan Công chém Soái Dương, anh em giải hiềm nghi và đoàn tụ.

Nội dung chính:

Đoạn trích Hồi trống cổ thành kể lại sự kiện anh em Quan Công, Trương Phi hội ngộ. La Quán Trung thể hiện nổi bật tích cách bộc trực, ngay thẳng của Trương Phi, đồng thời ngợi ca tình nghĩa “vườn đào” cao đẹp của anh em Lưu Bị, Vân Trường, Trương Phi.


1. Câu 1 trang 79 Ngữ văn 10 tập 2

Tại sao Trương Phi nổi giận định đâm chết Quan Công?

Trả lời:

Trương Phi nổi giận lôi đình đòi đâm chết Quan Công vì nghĩ Quan Công “bỏ anh, hàng Tào, được phong hầu tứ tước, nay lại đến đây đánh lừa tao”.


2. Câu 2 trang 79 Ngữ văn 10 tập 2

Vì sao có thể đặt nhan đề cho đoạn trích là Hồi trống Cổ Thành?

Trả lời:

Đặt nhan đề đoạn trích “Hồi trống Cổ Thành” là hết sức hợp lí bởi tập trung đúng vào tình huống kịch tính nhất của đoạn trích. Trương Phi buộc Quan Công phải chém đầu Sái Dương trong ba hồi trống để chứng minh sự trong sạch. Đó là điều kiện ngặt nghèo nhưng khi vượt qua, Quan Công chứng minh một cách thuyết phục lòng trung của mình. Đó là hồi trống thách thức, minh oan cho Quan Công, giải nghi cho Trương Phi và đoàn tụ.


3. Câu 3 trang 79 Ngữ văn 10 tập 2

Có ý kiến cho rằng “nóng như Trương Phi” còn là nóng lòng muốn biết sự thực, nóng lòng xác định phải trái, đúng sai, chứ không phải chỉ là nóng nảy do cá tính gàn dở. Anh (chị) có đồng ý không? Vì sao?

Trả lời:

Đồng ý với ý kiến, vì:

– Nóng nảy, thiếu bình tĩnh: nghe nói Quan Công hàng Tào, Trương Phi tin ngay mà không cần xác minh, dù Quan Công hay hai chị dâu, Tôn Càn giải thích đều không được. Trương Phi chỉ tin vào những gì thấy trước mắt (rõ ràng Quan Công đã ở doanh trại Tào).

– Nóng lòng muốn biết sự thực, nóng lòng muốn xác định phải trái đúng sai: đưa ra điều kiện ngặt nghèo buộc Quan Công phải chứng tỏ ngay, hành động đánh trống của Trương Phi cũng dứt khoát, gấp rút “thẳng cánh đánh trống”.


4. Câu 4 trang 79 Ngữ văn 10 tập 2

Tại sao nói: Nếu không có chi tiết Trương Phi thẳng tay giục trống thì đoạn văn sẽ tẻ nhạt, mất hết ý vị Tam quốc?

Trả lời:

Chi tiết Trương Phi thẳng tay giục trống thể hiện rõ sự thú vị, hấp dẫn của Tam quốc diễn nghĩa bởi nó làm nổi bật:

– Không khí chiến trận khốc liệt, hùng tráng, không khoan nhượng thời tam quốc.

– Khí phách và tính cách của các vị anh hùng: sự dứt khoát, bộc trực của anh hùng Trương Phi và tài nghệ phi phàm của anh hùng Quan Công.


LUYỆN TẬP

1. Câu 1 trang 79 Ngữ văn 10 tập 2

Kể lại câu chuyện bằng một đoạn văn khoảng 30 dòng.

Trả lời:

Đoạn trích Hồi trống Cổ Thành thuộc hồi 28. Quan Công đưa hai chị sang Nhữ Nam. Kéo quân đến Cổ Thành thì nghe nói Trương Phi đang ở đó. Quan Công mừng rỡ sai Tôn Càn vào thành báo Trương Phi ra đón hai chị.

Trương Phi khi ấy đang tức giận, nghe tin báo liền sai quân lính mở cổng thành, rồi một mình một ngựa vác bát xà mâu lao đến đòi giết Quan Công. Quan Công bị bất ngờ nhưng rất may tránh kịp nên không mất mạng. Đang nóng giận, Trương Phi nhất quyết không chịu ghi nhận lòng trung của Quan Công dù cả hai vị phu nhân đã hết lời thanh minh sự thật.

Giữa lúc đang bối rối thì đột nhiên ở đằng xa, Sái Dương mang Quân Tào đuổi tới. Trương Phi càng thêm tức giận, buộc Quan Công phải lấy đầu ngay tên tướng đó để chứng thực lòng trung. Quan Công không nói một lời, múa long đao xô lại. Chưa đứt một hồi trống giục, đầu Sái Dương đã lăn dưới đất. Bấy giờ, Phi mới tin anh là thực. Phi mời hai chị vào thành rồi cúi đầu sụp lạy xin lỗi Quan Công.


2. Câu 2 trang 79 Ngữ văn 10 tập 2

Tính cách của Trương Phi được biểu hiện qua những chi tiết nào?

Trả lời:

Tính cách của Trương Phi:

– Nóng nảy, bộc trực, đơn giản: Tôn Càn vừa vào báo, Trương Phi đã vội vã mặc áo giáp, vác xà mâu phi ngựa ra đòi đâm Quan Công.

– Hào hiệp, trượng nghĩa, đề cao lòng trung thành: kết tội và muốn trừng trị Quan Công vì nghĩ Quan Công đã phản bội dù đó là người anh kết nghĩa vườn đào.

– Ngay thẳng, chí công vô tư, không khoan nhượng tình riêng: thẳng tay đánh trống.

– Biết sửa sai và nhận lỗi: quỳ khóc lạy Vân Trường.


3. Câu 3 trang 79 Ngữ văn 10 tập 2

Tính cách của Trương Phi và Quan Công khác nhau như thế nào?

Trả lời:

Sự khác nhau trong tính cách của Trương Phí và Quan Công:

– Trương Phi: nóng nảy, cương trực, đơn giản, ngay thẳng.

– Quan Công: điềm tĩnh, trung nghĩa, tài trí, khiêm nhường.


CÁC BÀI VĂN HAY


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Hồi trống Cổ Thành sgk Ngữ văn 10 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các em làm bài Ngữ văn thật tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com