Soạn bài Tựa sgk Ngữ văn 10 tập 2

Nội dung bài Soạn bài Tựa sgk Ngữ văn 10 tập 2 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, phân tích, cảm nhận, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn lớp 10 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn và ôn thi THPT Quốc gia.


TỰA “TRÍCH DIỄM THI TẬP”

Hoàng Đức Lương

TIỂU DẪN

Trích diễm thi tập (Tuyển tập những bài thơ hay) do Hoàng Đức Lương (chưa rõ năm sinh và năm mất) sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn. Hoàng Đức Lương nguyên quán ở huyện Văn Giang (tỉnh Hưng Yên), trú quán ở huyện Gia Lâm (Hà Nội), thi đỗ tiến sĩ năm Mậu Tuất (1478). Không rõ ông soạn Trích diễm thi tập từ khi nào, chỉ biết bài tựa tập thơ được ông viết năm 1497.

Ở thế kỉ XV, sau khi chiến thắng quân Minh xâm lược, nhiều nhà văn hóa nước ta đã tiến hành sưu tầm tác phẩm văn thơ của trí thức Việt Nam từ các thời kì trước. Trích diễm thi tập là một trong số các bộ sưu tập ấy. Tuyển tập này bao gồm thơ của các nhà thơ từ thời Trần đến thời Lê thế kỉ XV (cuối tập là thơ của Hoàng Đức Lương). Việc biên soạn Trích diễm thi tập nằm trong trào lưu chung của thời đại phục hưng dân tộc ở thế kỉ XV.


VĂN BẢN

Thơ văn không lưu truyền hết ở đời là vì nhiều lí do:

Đối với thơ văn, cổ nhân ví như khoái chá (3), ví như gấm vóc; khoái chá là vị rất ngon trên đời, gấm vóc là màu rất đẹp trên đời, phàm người có miệng, có mắt, ai cũng quý trọng mà không vứt bỏ khinh thường. Đến như văn thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được. Chỉ thi nhân là có thể xem mà biết được sắc đẹp, ăn mà biết được vị ngon ấy thôi. Đấy là lí do thứ nhất làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời.

Nước ta từ nhà Lí, nhà Trần dựng nước đến nay, vẫn có tiếng là nước văn hiến, những bậc thi nhân, tài tử đều đem sở trường (4) của mình thổ lộ ra lời nói, lẽ nào không có người hay? Nhưng bậc danh nho làm quan to ở trong quán, các (5), hoặc vì bận việc không rỗi thì giờ để biên tập, còn viên quan nhàn tản chức thấp cùng những người phải lận đận về khoa trường (6), thì đều không để ý đến. Đấy là lí do thứ hai làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời.

Thỉnh thoảng, cũng có người thích thơ văn, nhưng lại ngại vì công việc nặng nề, tài lực kém cỏi, nên đều làm được nửa chừng rồi lại bỏ dở. Đấy là lí do thứcba làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời.

Sách vở về đời Lí – Trần phần nhiều chỉ thấy công việc nhà chùa là được lưu hành, như thế đâu phải vì lòng tôn sùng Nho học không sâu sắc bằng tôn sùng Phật học, mà chỉ vì chùa không ngăn cấm, cho nên sách được khắc vào ván để truyền mãi lại đời sau, còn như thơ văn, nếu chưa được lệnh vua, không dám khắc ván lưu hành. Đấy là lí do thứ tư làm cho thơ văn không lưu truyền hết ở trên đời.

Vì bốn lí do kể trên bó buộc, trải qua mấy triều đại lâu dài, dẫu đến những vật bền như đá, như vàng, lại được quỷ thần phú hộ, cũng còn tan nát trôi chìm. Huống chi bản thảo sót lại, tờ giấy mỏng manh để trong cái níp (7) cái hòm, trải qua mấy lần binh lửa, thì còn giữ mãi thế nào được mà không rách nát tan tành?

Đức Lương này học làm thơ, chỉ trông vào thơ bách gia (8) đời nhà Đường, còn như thơ văn thời Lí – Trần, thì không khảo cứu vào đâu được. Mỗi khi nhặt nhạnh ở giấy tàn, vách nát được một vài câu, thường cầm sách than thở, có ý đổ lỗi bậy cho hiền nhân quân tử (9) lúc bấy giờ. Than ôi! Một nước văn hiến, xây dựng đã mấy trăm năm, chẳng lẽ không có quyển sách nào có thể làm căn bản, mà phải tìm xa xôi để học thơ văn nhà Đường. Như thế chả đáng thương xót lắm sao!

Tôi không tự lượng sức mình, muốn sửa lại điều lỗi cũ, quên rằng sách cũ không còn bao nhiêu, trách nhiệm nặng nề mà tài hèn sức mọn, tìm quanh hỏi khắp nhưng số thơ thu lượm được cũng chỉ là một hai phần trong số muôn nghìn bài. Tôi còn thu lượm thêm thơ của các vị hiện đang làm quan trong triều, chọn lấy bài hay, chia xếp theo từng loại, được 6 quyển, đặt tên sách là Trích diễm. Ở cuối các quyển ấy, mạn phép phụ thêm những bài vụng về do tôi viết, cốt để làm sách dạy trong gia đình. Rồi những người thích bình phẩm thơ ca sẽ đem truyền rộng, may ra tránh được lời chê trách của người đời sau, chẳng khác gì hiện nay ta chê trách người xưa vậy.

Niên hiệu Hồng Đức năm thứ hai mươi tám, mùa xuân, Hoàng Đức Lương người Gia Lâm, đỗ Tiến sĩ Hoa lang, chức tham nghị viết Bài tựa này.

PHẠM TRỌNG ĐIỀM dịch
(Kiến văn tiểu lục, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1975.
Có bổ sung thêm bản dịch của Trần Văn Giáp)

Dưới đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Tựa sgk Ngữ văn 10 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:


HƯỚNG DẪN HỌC BÀI

Bố cục: 2 phần

– Phần 1: Từ đầu đến rách nát tan tành?: Những nguyên nhân khiến thơ văn không lưu truyền đầy đủ

– Phần 2: Còn lại: Niềm tự hào, ý thức trách nhiệm PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả đối với nền thơ ca dân tộc.

Nội dung chính:

Trích diễm thi tập thể hiện niềm tự hào, sự trân trọng và ý thức bảo tồn di sản văn học dân tộc.


1. Câu 1 trang 30 Ngữ văn 10 tập 2

Theo Hoàng Đức Lương, có những nguyên nhân nào khiến sáng tác thơ văn của người xưa không được lưu truyền đầy đủ cho đời sau? Cho biết nghệ thuật lập luận của tác giả.

Trả lời:

– Những nguyên nhân khiến sáng tác thời xưa không được lưu truyền đầy đủ:

+ Không phải ai cũng biết cảm nhận vẻ đẹp và biết trân trọng, lưu giữ thơ văn.

+ Bậc danh nho làm quan to thì bận rộn, bậc quan nhỏ hay người lận đận thi cử thì không để ý đến việc lưu truyền thơ văn.

+ Thiếu người đủ tâm huyết và năng lực để sưu tầm, biên soạn.

+ Việc lưu truyền còn phụ thuộc vào chế độ kiểm duyệt của triều đình.

+ Ngoài ra, thơ văn thất tán còn vì thời gian, binh lửa.

– Nghệ thuật lập luận ebook epub prc của tác giả: sử dụng biện pháp so sánh, liên tưởng; câu hỏi tu từ; liệt kê; hệ thống luận cứ mạch lạc, rõ ràng, logic. Từ đó, bày tỏ tấm lòng lo lắng, xót xa và tâm huyết PDF EPUB PRC AZW miễn phí đọc trên điện thoại – máy tính, ứng dụng đọc file epub, prc reader, azw reader của tác giả với thơ ca nước nhà.


2. Câu 2 trang 30 Ngữ văn 10 tập 2

Hoàng Đức Lương đã làm gì để sưu tầm thơ văn của tiền nhân?

Trả lời:

Cách tác giả sưu tầm thơ văn của tiền nhân:

– Tìm quanh hỏi khắp

– Thu lượm thêm thơ của các vị hiện đang làm quan trong triều.

– Chọn bài hay, chia xếp theo từng loại.


3. Câu 3 trang 30 Ngữ văn 10 tập 2

Điều gì thôi thúc Hoàng Đức Lương vượt khó khăn để biên soạn tuyển tập thơ này? Anh (chị) có cảm nghĩ gì về công việc sưu tầm, biên soạn thơ văn của ông?

Trả lời:

– Điều thôi thúc tác giả vượt qua khó khăn để biên soạn tuyển tập thơ:

+ Thực tế thiếu thơ văn để khảo cứu, học hỏi (nhu cầu thực tế).

+ Người học làm thơ chỉ trông vào thơ bách gia đời Đường, còn thơ văn Lí – Trần trong nước thì không có để xem xét (nỗi đau xót và ý thức trách nhiệm trước di sản thơ ca dân tộc bị thất tán).

+ Một nước văn hiến lâu đời nhưng chưa có sách làm căn bản (niềm tự hào, tự tôn dân tộc).

– Công việc sưu tầm thơ văn của Hoàng Đức Lương là một công việc nặng nề, vất vả nhưng có ý nghĩa, giá trị to lớn đối với di sản thơ ca dân tộc và đối với nhiều thế hệ.


4. Câu 4 trang 30 Ngữ văn 10 tập 2

Anh (chị) cho biết, trước Trích diễm thi tập đã có ý kiến nào nói về văn hiến dân tộc.

Trả lời:

Trước “Trích diễn thi tập” có ý kiến của Nguyễn Trãi về văn hiến dân tộc trong Bình Ngô đại cáo:

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu 


LUYỆN TẬP

Câu hỏi trang 30 Ngữ văn 10 tập 2

Tìm các dẫn chứng chứng tỏ các nhà văn, nhà thơ thời xưa rất tự hào về nền văn hiến dân tộc (Gợi ý: đọc lại phần một của tác phẩm Đại cáo bình Ngô).

Trả lời:

Có nhiều tác giả, nhà văn nhà thơ tự hào về nền văn hiến dân tộc

– Nam quốc sơn hà:

Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời

– Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác


CÁC BÀI VĂN HAY


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Tựa sgk Ngữ văn 10 tập 2 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các em làm bài Ngữ văn thật tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com