Soạn bài Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích sgk Ngữ Văn 6 tập 2 Kết Nối Tri Thức

Hướng dẫn soạn Bài 7. Thế giới cổ tích. Nội dung bài Soạn bài Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích sgk Ngữ Văn 6 tập 2 Kết Nối Tri Thức giúp các em học sinh học tốt môn ngữ văn 6, rèn luyện kĩ năng viết các kiểu văn bản: tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận và nhật dụng.


Viết

Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích

Một câu chuyện có thể được nhiều người chứng kiến, đánh giá và kể lại theo những cách khác nhau. Hãy hình dung xem những chuyện cổ tích mà em đã đọc có thể được kể lại như thế nào. Nhập vai vào một nhân vật trong câu chuyện là một trong những cách làm cho câu chuyện trở nên khác lạ, thú vị và tạo ra hiệu quả bất ngờ. Em có muốn trải nghiệm những điều khác lạ, thú vị và bất ngờ như vậy không?

Phân tích bài viết tham khảo

Đóng vai nhân vật kể lại một phần truyện Thạch Sanh

Nội dung chính: Bài văn đóng vai nhân vật Thạch Sanh để kể lại một phần truyện (từ xuất thân của Thạch Sanh đến đoạn đánh thắng đại bàng).

– Bài viết vừa trung thành với truyện gốc vừa có một số sáng tạo (thêm chi tiết, đặc biệt là diễn biến trận đấu đại bàng; cách nhấn lướt các chi tiết, sự kiện; thêm vào các đánh giá cá nhân của nhân vật,…)

– Ngôi kể: ngôi thứ nhất xưng “ta” nhập vai Thạch Sanh sau khi lên ngôi vua.

– Đoạn đầu mở bài bằng lời chào, cách đặt câu hỏi, hứa hẹn,… thu hút người đọc.

– Các chi tiết được sắp xếp theo trình tự thời gian, tập trung vào các chi tiết kì ảo.

– Kể theo diễn biến chính của truyện gốc, có sáng tạo thêm (lời kể, một số chi tiết: đoạn phát hiện và đánh nhau với đại bàng; các bình luận, đánh giá của nhân vật; lời kết; …)

– Tập trung khai thác những suy nghĩ, hành động cụ thể của nhân vật được đóng vai.

– Phần kết thúc bài: Nêu lí do kết thúc, tóm lược các sự kiện tiếp theo, nêu bài học tâm đắc.


Thực hành viết theo các bước

1. TRƯỚC KHI VIẾT

a. Chọn ngôi kể và đại từ tương ứng

– Ngôi kể sẽ là ngôi thứ nhất.

Ví dụ: ta, tôi, mình, tớ,… phù hợp với địa vị, giới tính,… của nhân vật em đóng vai cũng như bối cảnh kể.

b. Chọn lời kể phù hợp

– Cần xác định được giới tính, tuổi tác, địa vị,… của nhân vật đã lựa chọn lời kể phù hợp (cách xưng hô, dùng từ ngữ,…).

– Tính chất lời kể vui, buồn, thân mật, nghiêm trang,… cũng cần phù hợp với nội dung câu chuyện được kể, bối cảnh kể.

c. Ghi những nội dung chính của câu chuyện

– Giới thiệu thân phận.

– Kể lại câu chuyện phân chia tài sản.

– Kể lại chuyện chim đại bàng đến ăn khế trả vàng.

– Kể lại câu chuyện của người anh.

– Đưa ra ý nghĩa câu chuyện.

d. Lập dàn ý

– Mở bài: Đóng vai nhân vật để tự giới thiệu sơ lược về mình và câu chuyện định kể.

– Thân bài: Kể lại diễn biến của câu chuyện.

+ Xuất thân của các nhân vật.

+ Hoàn cảnh diễn ra câu chuyện.

+ Diễn biến chính:

– Sự việc 1.

– Sự việc 2.

– Sự việc 3.

– Kết bài: Kết thúc câu chuyện và nêu bài học được rút ra từ câu chuyện.


2. VIẾT BÀI

Đóng vai Người em kể lại chuyện Cây khế

Bài tham khảo:

Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân. Vì chăm chỉ làm lụng nên bố mẹ tội cũng có bát ăn bát để, hi vọng sau này cho anh em tôi làm vốn sinh nhai. Nhưng rồi cha mẹ tôi mất đột ngột. Anh trai tôi đã không làm như lời cha mẹ dặn trước lúc lâm chung là chia đều tài sản cho hai anh em mà chiếm hết gia tài, chỉ để lại cho tôi một túp lều nhỏ và cây khế còi cọc ở góc vườn.

Tôi chấp nhận mà không hề kêu ca, than phiền gì. Hằng ngày, tôi phải mò cua bắt ốc, cày thuê, cuốc mướn để sống. Cây khế trở thành tài sản quý giá nhất và là người bạn thân thiết của tôi. Tôi chăm sóc nó chu đáo, tận tình như người bạn. Vì vậy mà cây khế lớn rất nhanh và chẳng bao lâu đã ra hoa kết quả. Đến mùa khế chín, những chùm khế chín vàng óng, thơm lừng báo hiệu một mùa khế bội thu. Không thể nào nói hết được niềm hạnh phúc của mọi người trong gia đình tôi. Tôi đã đan những chiếc sọt để ngày mai đem khế ra chợ đổi lấy gạo. Sáng hôm đó, khi vừa thức dậy, tôi đã nhìn thấy trên cây khế có một con chim to với bộ lông sặc sỡ đang ăn những quả khế chín. Lòng tôi đau như cắt. Tôi chạy đến dưới gốc cây và nói: “Chim ơi! Ngươi ăn khế của ta thì gia đình ta biết lấy gì để sống?”. Chim bỗng ngừng ăn và cất tiếng trả lời: “Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi mà đựng”. Nói rồi chim bay đi. Tôi không tin lắm vào chuyện lạ lùng đó nhưng vẫn bảo vợ may cho mình một chiếc túi ba gang. Sáng hôm sau, chim đến từ sớm và đưa tôi ra một hòn đảo nhỏ giữa biển. Tôi không thể tin vào những gì hiện ra trước mắt. Cả hòn đảo toàn vàng bạc châu báu chất đống. Cả hòn đảo ánh lên màu vàng làm tôi bị lóa mắt. Không hề có một bóng người. Tôi cảm thấy lo sợ, cứ đứng yên một chỗ. Nhưng rồi chim vỗ cánh và giục giã: “Anh hãy lấy vàng bạc, châu báu vào túi, rồi tôi đưa về.”. Lúc đó tôi mới dám nhặt vàng cho vào đầy túi ba gang rồi lên lưng chim để trở về đất liền.

Từ đó, gia đình tôi không còn phải ăn đói mặc rách nữa. Tôi dựng một căn nhà khang trang ngay trong khu vườn, nhưng vẫn giữ lại túp lều và cây khế.

Tôi dùng số của cải đó chia cho những người dân nghèo khổ trong làng. Cũng không hiểu sao từ bữa đó, chim không còn đến ăn khế nữa. Cây khế bây giờ đã to lớn, toả bóng mát xuống cả một góc vườn. Mùa khế nào tôi cũng chờ chim thần đến để bày tỏ lòng biết ơn.

Tiếng lành đồn xa, câu chuyện lan đến tai người anh trai tôi. Một sáng, anh đến nhà tôi rất sớm. Đây là lần đầu tiên anh tới thăm tôi kể từ ngày bố mẹ mất. Anh đòi tôi đổi toàn bộ gia sản của anh lấy túp lều và cây khế. Tôi rất buồn khi phải chia tay với căn nhà và cây khế. Nhưng trước lời cầu khẩn của anh, tôi đành bằng lòng. Cả gia đình anh chuyển về túp lều cũ của tôi. Ngày nào anh cũng ra dưới gốc khế chờ chim thần đến. Mùa khế chín, chim cũng trở về ăn khế. Vừa thấy chim, anh tôi đã khóc lóc, kêu gào thảm thiết và đòi chim phải trả vàng. Chim cũng hứa sáng mai sẽ đưa anh tôi ra đảo vàng và dặn may túi ba gang. Tối hôm đó, anh tôi thức cả đêm để may túi mười gang ngày mai đi lấy vàng. Sáng hôm sau, vừa ra tới đảo vàng, anh tôi đã hoa mắt bởi vàng bạc châu báu của hòn đảo. Anh tôi vội nhét vàng vào đầy túi mười gang, vào túi quần, túi áo và mồm cũng ngậm vàng nữa. Trên đường trở về nhà, chim nặng quá, kêu anh tôi vứt bớt vàng xuống biển cho đỡ nặng. Vốn tính tham lam, anh không những không vứt bớt xuống mà còn bắt chim bay nhanh hơn. Nặng quá, chim càng lúc càng mệt. Đôi cánh trở nên quá sức, yếu dần. Cuối cùng, không còn gắng được nữa, chim chao đảo rồi hất luôn anh tôi xuống biển cùng với số vàng.

Tôi trở lại sống ở nhà cũ, cùng túp lều và cây khế. Nhưng chim thần không bao giờ còn quay trở lại nữa… Anh trai tôi đã không thể quay trở về chỉ vì lòng tham vô đáy. Một nỗi buồn man mác dâng lên trong lòng tôi.


3. CHỈNH SỬA BÀI VIẾT

Xem lại và chỉnh sửa bài viết theo một số gợi ý sau đây:

Yêu cầu Gợi ý chỉnh sửa
Được kể từ người kể chuyện ngôi thứ nhất. Người kể chuyện đóng vai một nhân vật trong truyện. Rà soát để bảo đảm sự chính xác và thống nhất về người kể chuyện, ngôi kể, từ ngữ, xưng hô. Nếu chưa chính xác và thống nhất, cần chỉnh sửa.
Có sự tưởng tượng, sáng tạo thêm nhưng không thoát li truyện gốc; tránh làm thay đổi, biến dạng các yếu tố cơ bản của cốt truyện ở truyện gốc. Đánh dấu các diễn biến chính, các chi tiết được lấy từ truyện gốc; kiểm tra tính chính xác của chúng. Nếu chưa chính xác thì cần sửa lại cho đúng với truyện gốc.

Kiểm tra tính hợp lí, nhất quán giữa các chi tiết được sáng tạo thêm với truyện gốc (quan hệ nhân quả, trật tự thời gian,…). Nếu chưa phù hợp, cần sửa lại.

Cần có sự sắp xếp hợp lí các chi tiết và bảo đảm có sự kết nối giữa các phần. Rà soát trình tự lô-gic và sự kết nối giữa các chi tiết, các đoạn, các phần. Chỉnh sửa nếu chưa hợp lí.
Cần bổ sung các yếu tố miêu tả, biểu cảm để tả người, tả vật hay thể hiện cảm xúc của nhân vật. Kiểm tra các yếu tố miêu tả, biểu cảm. Nếu chưa có hoặc chưa đủ thì cần bổ sung.
Được kể từ người kể chuyện ngôi thứ nhất. Người kể chuyện đóng vai một nhân vật trong truyện. Rà soát để bảo đảm sự chính xác và thống nhất về người kể chuyện, ngôi kể, từ ngữ, xưng hô. Nếu chưa chính xác và thống nhất, cần chỉnh sửa.

Bài viết tham khảo

Đóng vai Cô Út kể lại chuyện Sọ Dừa

Tôi là cô Út trong một gia đình có ba chị em gái. Tôi may mắn lấy được một chàng trai khôi ngô, tài giỏi. Trong một lần đi sứ, khi quan trạng nhà tôi và các sứ giả khác bàn chuyện, tôi cùng các phu nhân ngồi thưởng trà với nhau. Sau khi nghe một vị phu nhân kể về mối lương duyên thú vị của họ, tôi cũng bèn kể câu chuyện dài giữa mình và chàng trạng nguyên Sọ Dừa.

Thuở trước, nhà tôi cũng được coi là bậc phú quý, có của ăn của để. Cha tôi thuê kha khá người ở, trong đó có hai vợ chồng ngoài năm mươi hiền lành, chịu khó. Họ hiền lành là vậy, nhưng ông trời lại chưa cho họ một mụn con nối dõi. Mãi sau này, người vợ sinh ra một đứa bé không chân, không tay, tròn trịa chẳng khác nào quả dừa. Nghe mọi người kể, bà có mang khi vào rừng hái củi, khát nước nên uống nước mưa trong một cái sọ dừa. Có lẽ vì thế mà bà đặt cho con cái tên Sọ Dừa. Sọ Dừa đã từng bị mẹ vứt đi khi sinh ra thấy hình hài dị biệt, nhưng cậu đã cất tiếng xin mẹ:

– Mẹ ơi! Con là người đấy. Mẹ cho con sống với mẹ, đừng vứt con đi mà tội nghiệp.

Bao năm trôi qua, Sọ Dừa vẫn chỉ lăn lông lốc, chẳng thể làm việc gì như con nhà người ta.

Người mẹ ngày càng phiền lòng hơn. Biết những muộn phiền của mẹ, Sọ Dừa vội xin mẹ nói với cha tôi đến ở chăn bò. Cha tôi ban đầu ngần ngại vì sợ người như cậu không thể chăn dắt tốt cho đàn bò. Nghĩ kĩ, cuối cùng cha vẫn đồng ý. Trái ngược với sự nghi ngại của cha tôi và mọi người, Sọ Dừa chăn bò rất giỏi. Dù chỉ lăn theo sau đàn bò ra đồng rồi về chuồng nhưng ngày nào cũng như ngày nào, đàn bò no căng bụng. Cha tôi rất hài lòng.

Ngày mùa đến, cha sai ba chị em nhà tôi thay phiên nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai chị tôi kiêu kì, thường hắt hủi Sọ Dừa. Tôi thấy Sọ Dừa cũng hiền lành, tốt bụng nên sẵn sàng đối tốt với cậu. Một hôm, vừa đến chân đồi, tôi đã thoảng thấy tiếng sáo véo von. Tôi ngạc nhiên vì giữa đồi núi lại có ai cất tiếng sáo. Tôi bèn rón rén nấp sau bụi cây rình xem. Tôi càng ngạc nhiên hơn nữa khi thấy một chàng trai khôi ngô đang ngồi trên chiếc võng thổi sáo. Tôi lỡ vin vào cành khô, cành khô khẽ gãy. Tiếng cành gãy làm chàng trai ban nãy biến mất và Sọ Dừa lại nằm lăn lóc ở đấy. Mấy lần như vậy, tôi đoán là Sọ Dừa không phải người phàm trần. Trước một vẻ đẹp kì thú của Sọ Dừa, tôi đem lòng thầm thương chàng.

Dường như Sọ Dừa hiểu lòng tôi. Có hôm cha tôi gắt gỏng với ba chị em tôi về chuyện của Sọ Dừa. Chúng tôi không rõ là chuyện gì, mãi sau tôi mới biết thì ra mẹ Sọ Dừa đã đến thưa chuyện với cha tôi về việc xin cưới. Cha tôi đã thách cưới Sọ Dừa một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo và mười vò rượu tăm. Cả cha tôi lẫn mẹ Sọ Dừa đều nghĩ cậu sẽ thôi việc đòi lấy vợ. Không ngờ, đúng ngày hẹn, hai mẹ con Sọ Dừa đem sính lễ tới cùng với chục gia nhân khiêng lễ. Cha tôi hoa cả mắt, lúng túng cho gọi ba chị em tôi ra. Cha hỏi:

– Sọ Dừa đến xin cưới vợ. Ai trong các con ưng thuận làm vợ thằng Sọ Dừa?

Hai chị tôi bĩu môi, chê bai. Tôi mừng biết bao nên cúi mặt mỉm cười, tỏ ý thuận lòng. Cha tôi thoáng vẻ ngạc nhiên và tức giận nhưng đành nhận lễ.

Ngày cưới của chúng tôi rất linh đình. Nhưng đúng lúc rước dâu, chẳng ai thấy Sọ Dừa đâu. Tôi cũng rất mừng vì người sánh vai cùng mình là chàng trai khôi ngô tuấn tú tôi thường thấy. Ai nấy đều sửng sốt, mừng rỡ, chỉ có hai cô chị tôi là tiếc, vừa ghen tức.

Vợ chồng tôi sống bên nhau rất hạnh phúc. Chồng tôi còn miệt mài đèn sách và đỗ trạng nguyên năm ấy. Nhưng chúng tôi phải chia tay nhau vì khi thành quan trạng, chàng Sọ Dừa ngày nào phải đi sứ theo lệnh vua. Kì lạ, trước khi đi, chàng đưa cho tôi một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà. Chàng còn dặn phải luôn giắt trong người.

Từ ngày đi lấy chồng, hai chị gái tôi đối xử với tôi khác hẳn. Hai chị còn rủ tôi đi chèo thuyền ra biển. Nhưng đúng hôm đó, tôi bị ngã xuống nước rồi bị cá kình nuốt chửng. Trong bụng cá, tôi bèn lấy con dao đâm cá. Cá chết nên nổi lên mặt biển rồi dạt vào hòn đảo ngoài khơi. Tôi khoét bụng cá chui ra, nhóm lửa từ hai hòn đá rồi nước thịt cá ăn cho đỡ đói. Hai quả trứng chồng đưa nay đã nở thành một đôi gà đẹp. Nhờ có chúng mà tôi bớt cô đơn giữa hòn đảo hoang vắng. Rồi chính chú gà trống đã gáy gọi chiếc thuyền lớn đang lướt qua đảo vào cứu tôi. Tôi mừng vui khôn xiết khi đó chính là thuyền của quan trạng. Chàng đón tôi về, mở tiệc mừng, mời hàng xóm đến chung vui. Tôi không ra đón tiếp mọi người. Hai chị tôi không hay biết nên giả vờ kể lể thương xót việc tôi ngã xuống biển. Chồng tôi gọi tôi ra. Hai chị ngạc nhiên và xấu hổ tột cùng, vội tìm cách ra về. Cũng từ đó, chẳng ai thấy hai người chị của tôi nữa.


Bài trước:

👉 Soạn bài Vua chích chòe sgk Ngữ Văn 6 tập 2 Kết Nối Tri Thức

Bài tiếp theo:

👉 Soạn bài Kể lại một truyện cổ tích bằng lời một nhân vật sgk Ngữ Văn 6 tập 2 Kết Nối Tri Thức

Trên đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Viết bài văn đóng vai nhân vật kể lại một truyện cổ tích sgk Ngữ Văn 6 tập 2 Kết Nối Tri Thức đầy đủ, ngắn gọn và dễ hiểu nhất. Chúc các bạn làm bài môn ngữ văn 6 tốt nhất!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com