Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 22 sgk Ngữ Văn 7 tập 2 Kết Nối Tri Thức

Hướng dẫn soạn Bài 6. BÀI HỌC CUỘC SỐNG. Nội dung bài Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 22 sgk Ngữ Văn 7 tập 2 Kết Nối Tri Thức giúp các em học sinh học tốt môn ngữ văn 7, rèn luyện kĩ năng viết các kiểu văn bản: tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận văn học và nghị luận xã hội.


Củng cố, mở rộng

Câu 1 trang 22 Ngữ Văn 7 tập 2 KNTT

Kẻ bảng vào vở theo mẫu sau và điền thông tin phù hợp:

Phương diện so sánh Truyện ngụ ngôn Tục ngữ
Loại sáng tác    
Nội dung    
Dung lượng văn bản    

Trả lời:

Phương diện so sánh Truyện ngụ ngôn Tục ngữ
Loại sáng tác Sáng tác dân gian. Sáng tác dân gian.
Nội dung Dùng cách ẩn dụ hoặc nhân hóa loài vật, con vật hay kể cả con người để thuyết minh cho một chủ đề luân lý, triết lý một quan niệm nhân sinh hay một nhận xét về thực tế xã hội hay những thói hư tật xấu của con người. Là những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (tự nhiên, lao động sản xuất, xã hội), được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hằng ngày.
Dung lượng văn bản Văn vần hoặc văn xuôi, dung lượng của truyện thường không dài. Ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh.

Câu 2 trang 22 Ngữ Văn 7 tập 2 KNTT

Sưu tầm và ghi lại những câu tục ngữ em đã nghe hoặc đọc vào vở hay một cuốn sổ nhỏ (nên chia các câu tục ngữ đó theo nhóm chủ đề)

Trả lời:

♦ Những câu ca dao, tục ngữ về thiên nhiên về sản xuất và lao động:

1. Con trâu là đầu cơ nghiệp.

2. Chuồng gà hướng đông cái lông chẳng còn.

3. Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm.

4. Đầu năm gió to, cuối năm gió bấc.

5. Cầu vồng mống cụt, không lụt cũng mưa.

6. Chớp đằng tây, mưa dây bão giật.

7. Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa.

♦ Những câu ca dao, tục ngữ hay về gia đình, tình cảm gia đình

1. Anh em nào phải người xa
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân
Yêu nhau như thể tay chân
Anh em hoà thuận, hai thân vui vầy.

2. Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ “Hiếu” mới là đạo con.

3. Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân.

4. Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa.

5. Trồng khoai đất lạ, gieo mạ đất quen.


Câu 3 trang 23 Ngữ Văn 7 tập 2 KNTT

Hãy viết đoạn văn (khoảng 8 – 10 câu) nêu những điều tốt đẹp em đã tiếp nhận được sau khi đọc những truyện ngụ ngôn, tục ngữ và thành ngữ trong bài học này.

Trả lời:

“Hai năm học nói cả đời lắng nghe” Thật vậy, học tập, lắng nghe chính là chuyện mà con người luôn phải trau dồi trong cuộc đời của mình. Kho tàng văn học dân gian của đất nước ta là cả một kho tri thức, bài học cho con người học tập và noi theo. Sau khi đọc và nghe một số những câu chuyện ngụ ngôn thì bản thân mỗi học sinh đều rút ra được những bài học. Đó là những kinh nghiệm trong lao động sản xuất từ những câu ca dao về thiên nhiên và lao động sản xuất, đó là những bài học đạo lý làm người từ những câu ca dao, tục ngữ về con người và xã hội. Hay là các bài học triết lý nhân sinh được rút ra từ các câu chuyện ngụ ngôn. Bất cứ một câu ca dao, tục ngữ hay truyện ngụ ngôn nào cũng đều đang làm phong phú và hoàn thiện hơn tâm hồn của mỗi con người. Con người từ đây biết nhìn nhận thời tiết, biết làm người nhân hậu, lương thiện, biết ơn, giàu lòng vị tha để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

Hoặc:

Truyện ngụ ngôn và tục ngữ luôn là kho tàng tri thức, kinh nghiệm dân gian tự bao đời nay. Những truyện ngụ ngôn và tục ngữ ấy luôn khuyên răn con người, giúp con người có được cuộc sống tốt đẹp. Sau khi đọc những truyện ngụ ngôn, tục ngữ và thành ngữ trong bài 6, em đã có cho mình được những điều bổ ích, giúp em vững vàng hơn trong cuộc sống. Em đã biết cần phải có chính kiến và quyết đoán. Em cũng biết sống ở đời phải có nghĩa, có trước có sau. Em cũng biết hiểu biết của con người so với thế giới mãi mãi là hạn chế, vì vậy chúng ta cần không ngừng trau dồi và phải luôn giữ thái độ khiêm tốn. Em cũng biết được cần phải chăm chỉ mới có thể đạt kết quả xứng đáng, mới có thể có được thành công. Những triết lí này, trong cuộc sống ngày nay vẫn luôn được nhắc đến, hóa ra lại có tự ngàn xưa, được ông cha ta để lại trong kho tàng truyện ngụ ngôn, tục ngữ, thành ngữ.


Câu 4 trang 23 Ngữ Văn 7 tập 2 KNTT

Hãy kể lại một truyện ngụ ngôn mà ý nghĩa của nó có gắn với một thành ngữ.

Trả lời:

Truyện ngụ ngôn gắn liền với một thành ngữ: Thầy bói xem voi

Có năm ông thầy bói mù nhân buổi ế hàng đã rủ nhau cùng chung tiền biếu người quản voi để có thể xem hình thù con voi trông như thế nào. Chợt nghe người ta rằng nói có voi đi qua, năm thầy bói bèn chung nhau tiền biếu người quản voi, xin cho voi dừng lại để cùng xem thử hình thù của con voi như thế nào. Năm ông thầy bói, chẳng ai nói với ai câu nào, đều tiến lại gần con voi và bắt đầu sờ. Nhưng trớ trêu thay, mỗi thầy chỉ sở vào một bộ phận của con voi. Thầy thì sờ ngà, thầy thì sờ tai, thầy sờ chân, thầy sờ đuôi. Tất cả các thầy đều cảm thấy vui vẻ khi lần đầu được thấy voi. Các thầy sờ một cách rất cần thận, và bằng cảm nhận của mình, họ đều đưa ra những nhận xét riêng.

Thầy sờ vòi bảo rằng:

– Tưởng con voi nó như thế nào, hoá ra nó sun sun giống như con đỉa.

Thầy sờ ngà thì bảo:

– Không phải! Con voi nó dài dài như cái đòn càn.

Thầy sờ tai bảo:

– Đâu có! Nó trông bè bè như cái quạt thóc.

Thầy sờ chân cãi lại:

– Ai bảo? Trông nó sừng sững như cái cột đình.

Thầy sờ đuôi lại nói rằng:

– Các thầy nói đều sai cả. Con voi nó tua tủa như cái chổi xể cùn.

Năm thầy, không thầy nào chịu thua, ai cũng cho mình nói đúng, không ai chịu ai, thành ra xô xát với nhau, đánh nhau toác đầu chảy máu.

Như vậy đấy các bạn ạ, câu chuyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi” khôn chỉ là một câu chuyện cười mà nó còn để lại cho chúng ta những bài học sâu sắc đó là: “Khi nhìn nhận bất cứ một vấn đề nào chúng ta cần nhìn một cách toàn diện và tổng thể các mặt của một vấn đề, không nên có cái nhìn phiến diện để kết luận về một sự vật”. Bên cạnh đó, câu chuyện còn nhắc nhở chúng ta nên học cách lắng nghe ý kiến của người khác.

Hoặc:

Được một hôm rảnh rỗi, không có khách nào vào xem bói. Cả năm ông thầy bói liền ngồi bàn luận xem con voi có hình thù như thế nào. Nghe thấy sắp có voi đi qua, năm thầy bói liền chung tiền biếu tặng người chủ của con voi để xin cho con voi đứng lại một lát. Vậy là mỗi thầy bói sờ vào một bộ phận của con voi. Mỗi người tưởng tượng ra hình thù của con voi khác nhau. Không ai chịu nhường ai. Cuối cùng, họ đánh nhau sứt đầu mẻ trán.


Bài trước:

👉 Soạn bài Kể lại một truyện ngụ ngôn sgk Ngữ Văn 7 tập 2 Kết Nối Tri Thức

Bài tiếp theo:

👉 Soạn bài Thiên nga, cá măng và tôm hùm sgk Ngữ Văn 7 tập 2 Kết Nối Tri Thức

Trên đây là bài Hướng dẫn Soạn bài Củng cố, mở rộng trang 22 sgk Ngữ Văn 7 tập 2 Kết Nối Tri Thức đầy đủ, ngắn gọn và dễ hiểu nhất. Chúc các bạn làm bài môn ngữ văn 7 tốt nhất!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com