Soạn bài Những đứa trẻ sgk Ngữ văn 9 tập 1

Hướng dẫn Soạn Bài 17 sách giáo khoa Ngữ văn 9 tập một. Nội dung bài Soạn bài Những đứa trẻ sgk Ngữ văn 9 tập 1 bao gồm đầy đủ bài soạn, tóm tắt, miêu tả, phân tích, cảm nhận, thuyết minh, nghị luận,… đầy đủ các bài văn mẫu lớp 9 hay nhất, giúp các em học tốt môn Ngữ văn 9, ôn thi vào lớp 10.


VĂN BẢN

NHỮNG ĐỨA TRẺ(*)

(Trích Thời thơ ấu)

Có đến gần một tuần(1) không thấy ba anh em nhà ấy(2) ra sân chơi, nhưng sau đó chúng lại xuất hiện, ồn ào hơn trước. Thằng anh lớn nhìn thấy tôi(3) trên cây(4), nó gọi, giọng thân mật:

– Xuống đấy chơi với chúng tớ!

Chúng tôi trèo lên cái xe trượt tuyết(5) cũ để ở dưới mái hiên nhà kho rồi vừa ngắm nghía nhau, vừa nói chuyện rất lâu.

– Các cậu có bị ăn đòn không?(6)

– Có – Thằng anh lớn trả lời.

Tôi thấy khó mà tin được rằng những đứa trẻ này cũng bị đánh đòn như tôi(7), tôi thấy tức thay cho chúng.

– Sao anh lại bắt chim? – Thằng bé nhất hỏi.

– Vì chúng nó hót hay lắm.

– Không nên bắt, cứ để cho chúng muốn bay đi đâu thì bay.

– Được, mình sẽ không bắt nữa!

– Nhưng anh hãy bắt cho em một con đã.

– Em muốn chim gì?

– Chim gì hót vui ấy. Để nhốt vào lồng.

– Thế thì chim bạch yến (8) nhé?

– Mèo nó bắt mất – Thằng thứ hai nói – Mà bố cũng chẳng cho nuôi.

Thằng anh lớn tán thành:

– Đúng đấy, bố chẳng cho nuôi đâu…

– Thế các cậu có mẹ không?

– Không – Thằng anh lớn đáp.

Nhưng thằng thứ Hai chữa lại:

– Có, nhưng là mẹ khác, không phải là mẹ chúng tớ, chúng tớ không còn mẹ, mẹ chúng tớ chết rồi.

– Mẹ khác thì gọi là dì ghẻ – tôi nói.

Thằng anh lớn gật đầu:

– Ừ.

Và cả ba đứa có vẻ nghĩ ngợi, gương mặt sầm lại.

Qua những truyện cổ tích của bà tôi, tôi đã biết thế nào là dì ghẻ, nên tôi rất thông cảm với sự im lặng, nghĩ ngợi của bọn nó. Chúng ngồi sát vào nhau, giống như những chú gà con. Tôi nhớ lại truyện mụ dì ghẻ phù thuỷ đã dùng mưu đánh lừa để giả làm mẹ thật, tôi liền bảo chúng:

– Mẹ thật của các cậu thế nào cũng sẽ về, rồi các cậu xem!

Thằng anh lớn nhún vai:

– Chết rồi cơ mà, về làm sao được…

Không được ư? Trời ơi, biết bao nhiêu lần những người chết, thậm chí đã bị xả(9) ra từng mảnh, mà chỉ cần vẩy cho ít nước phép(10) là sống lại; có biết bao nhiêu người chết mà không phải là chết thật, vì phép của bọn phù thủy.

Tôi bèn kể lại một cách sôi nổi cho chúng nghe những câu chuyện của bà tôi. Lúc đầu, thằng anh lớn chỉ mỉm cười, sau đó nhẹ nhàng bảo:

– Những chuyện ấy chúng tớ biết cả rồi, đấy là những truyện cổ tích…

Hai em nó im lặng nghe, thằng bé nhất mím chặt môi và phồng má lên, còn thằng kia thì chống khuỷu tay lên đầu gối, cúi về phía tôi, tay kia quàng lên vai em nó, ấn em nó xuống.

Trời đã bắt đầu tối, những đám mây đỏ treo lơ lửng trên các mái nhà, bỗng trước mắt chúng tôi hiện ra một ông già(11) với bộ ria trắng, mình vận chiếc áo dài thùng thùng màu nâu nhạt như của thầy tu, đội chiếc mũ xù lông.

– Đứa nào đây? – Ông ta hỏi và chỉ vào tôi.

Thằng anh lớn đứng dậy, hất đầu về phía nhà ông nói:

– Nó ở … bên kia sang …

– Đứa nào gọi nó sang?

Tức thì cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe đi vào nhà, khiến tôi lại nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn(12).

Ông già nắm chặt lấy vai tôi và dẫn tôi qua sân ra cổng; ông ta làm tôi sợ đến phát khóc, nhưng ông bước dài và nhanh đến nỗi tôi chưa kịp khóc òa lên thì đã ở ngoài đường rồi, còn ông ta đứng trước cổng, giơ ngón tay dọa tôi và nói:

– Cấm không được đến nhà tao!

[…] Tôi vẫn tiếp tục chơi với mấy đứa trẻ ấy và cảm thấy rất vui thích. Trong một ngách hẹp giữa bức tường nhà tôi và hàng rào nhà Ốp-xi-an-ni-cốp có một cây du, một cây bồ đề và bụi hương mộc rậm rạp. Nấp sau bụi cây đó, tôi khoét một lỗ hổng hình bán nguyệt ở hàng rào, mấy thằng bé, lần lượt từng đứa hay hai đứa một, lại gần, và chúng tôi ngồi xổm hoặc quỳ nói chuyện khe khẽ với nhau. Một đứa trong số ba anh em chúng phải luôn đứng canh để đề phòng ông đại tá bất chợt bắt gặp chúng tôi.

Chúng kể cho tôi nghe cuộc sống buồn tẻ của chúng, và những chuyện đó làm tôi buồn lắm; chúng kể cho tôi nghe về những con chim tôi bẫy được đang sống ra sao và những chuyện trẻ con khác, nhưng tôi nhớ lại thì chưa bao giờ chúng nói một lời nào về bố và về dì ghẻ. Thường thì chúng chỉ đề nghị tôi kể truyện cổ tích; tôi kể lại những truyện bà tôi đã kể, và nếu quên chỗ nào, tôi bảo chúng đợi, rồi chạy về nhà hỏi lại bà tôi. Thấy thế bà tôi thường rất hài lòng.

Tôi kể cho chúng nghe nhiều về bà tôi; một hôm thằng lớn thở dài nói:

– Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà tớ ngày trước cũng rất tốt…

Nó thường nói một cách buồn bã: ngày trước, trước kia, đã có thời… dường như nó đã sống trên trái đất này một trăm năm chứ không phải mười một năm. Tôi còn nhớ nó có đôi bàn tay nhỏ nhắn, những ngón tay thon thon và người mảnh dẻ, yếu ớt, cặp mắt rất sáng, nhưng dịu dàng như ánh sáng của những ngọn đèn trong nhà thờ. Hai em nó cũng rất dễ thương, tôi tin yêu lắm, tôi luôn muốn làm cho chúng vui thích, nhưng tôi ưa thằng lớn hơn cả…

(M. Go-rơ-ki(*)Thời thơ ấu, theo bản dịch

của Trần Khuyến – Cẩm Tiêu, NXB Văn học, Hà Nội, 1976.

Tên bài do NBS đặt)

Chú thích:

(*) Mác-xim Go-rơ-ki (1868 – 1936) là bút danh của A–lếch–xây Pê-scốp, một trong những nhà văn lớn của Nga và của thế giới trong thề kỉ XX. Pê-scốp mồ côi bố khi mới ba tuổi và sống với ông bà ngoại; lớn lên, lại phải đi làm rất nhiều nghề để kiếm ăn. Bút danh “Go-rơ-ki”, theo tiếng Nga, có nghĩa là “cay đắng”. Co-rơ-ki là tác giả của bộ ba tiểu thuyết tự thuật, loại tiểu thuyết nhà văn dùng ngôi thứ nhất (xưng “tôi”) kể chuyện đời mình: Thời thơ ấu (1913 – 1914), Kiếm sống (1916), Những trường đại học của tôi (1923). Một tác phẩm quan trọng khác của ông là Người mẹ (1906 – 1907), tiểu thuyết viết về sự chuyển biến tư tưởng của nhân vật chính, một bà mẹ Nga, về phía chủ nghĩa xã hội.

Văn bản Những đứa trẻ trích ở chương IX tác phẩm Thời thơ ấu (gồm mười ba chương). Dạo ấy, dưới thời Nga hoàng, A-li-ô-sa (tên thân mật thường gọi ở nhà của Mác-xim Go-rơ-ki) ở với ông bà ngoại vì bố mất sớm, mẹ đi lấy chồng khác. Bên hàng xóm là nhà ông đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp đã già, sống với người vợ kế và ba đứa con nhỏ mồ côi mẹ khoảng trên dưới mười tuổi, trạc tuổi với A-li-ô-sa. Do tình cờ có lần A-li-ô-sa cùng hai đưa con lớn của ông đại tá kéo dây gàu lên cứu được thằng nhỏ chơi nghịch nhảy vào gàu rơi xuống giếng, nên mấy đứa trẻ chơi thân với A-li-ô-sa, bất chấp sự cấm đoán của bố. Đoạn trích Những đứa trẻ tiếp theo sự kiện ấy.

(1) Sau sự kiện thằng bé ngã xuống giếng (xem chú thích *).

(2) Ba đứa trẻ con đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp (xem chú thích *)

(3) Nhân vật người kể chuyện; ở đây là Mác-xim Go-rơ-ki.

(4) Cái cây bên nhà A-li-ô-sa sát ngay hàng rào nhà đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp.

(5) Xe trượt tuyết: loại xe không có bánh, di chuyển bằng cách trượt trên tuyết ở những miền băng giá.

(6) Bị đòn vì chơi đùa nghịch ngợm để thằng em ngã xuống giếng.

(7) Ông ngoại của A-li-ô-sa là người rất khó tính, nên A-li-ô-sa thường bị đe nẹt và ăn đòn một cách oan uổng.

(8) Chim bạch yến: loài chim yến lông trắng muốt, hót rất hay.

(9) Xả: chặt ra thành từng mảnh lớn (thường nói về thịt gia súc).

(10) Nước phép: loại nước uống có thể làm cho người chết sống lại (theo mê tín hoặc trong các truyện dân gian).

(11) Đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp, bố của ba đứa trẻ.

(12) Ở đoạn trước khi xảy ra chuyện thằng bé bị ngã xuống giếng, A-li-ô-sa đang ngồi trên cành cây nhìn mấy đứa trẻ chơi ngoài sân thì nghe tiếng đại tá ở trong nhà gọi các con vào, Go-rơ-ki kể: “Chúng thong thả và ngoan ngoãn đi vào hệt như những chú ngỗng”.

Dưới đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Những đứa trẻ sgk Ngữ văn 9 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Nội dung chi tiết câu trả lời từng câu hỏi các bạn xem dưới đây:


ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN

Tóm tắt:

Một tuần vắng bóng sau sự kiện đứa em nhỏ ngã xuống giếng, ba anh em con nhà Ốp-xi-an-ni-cốp lại ra chơi với A-li-ô-sa. Chúng nói với nhau nhiều thứ chuyện. Bỗng nhiên lão đại tá bắt gặp và đuổi khỏi nhà, cấm các con ông chơi với cậu. Nhưng không vì thế mà lũ trẻ chịu xa nhau, chúng vẫn tìm cách chơi với nhau một cách vụng trộm.

Nội dung chính:

Đoạn trích Những đứa trẻ đã thuật lại hết sức sinh động tình bạn thân thiết nảy sinh giữa ông hồi còn nhỏ với mấy đứa trẻ sống thiếu tình thương bên hàng xóm, bất chấp những cản trở trong quan hệ xã hội lúc bấy giờ.


1. Câu 1 trang 233 sgk Ngữ văn 9 tập 1

Thử chia bài văn này thành ba phần và đặt tiêu đề cho mỗi phần. Tìm những chi tiết xuất hiện ở cả phần 1 và phần 3 tạo nên sự kết nối chặt chẽ.

Trả lời:

Đoạn trích có thể chia làm ba phần:

– Phần một (Từ đầu đến “em nó cúi xuống”): Tình bạn tuổi thơ trong sáng.

– Phần hai (tiếp theo đến cấm không được đến nhà tao”): Tình bạn bị cấm đoán.

– Phần ba (đoạn còn lại): Tình bạn vẫn được duy trì.

Những chi tiết: những đứa trẻ, những con chim, truyện cổ tích, người dì ghẻ, người bà hiền hậu đã xuất hiện ở phần đầu lại xuất hiện ở phần thứ ba, tạo nên mối quan hệ kết nối thống nhất và chặt chẽ, gây được ấn tượng sâu sắc trong người đọc.


2. Câu 2 trang 233 sgk Ngữ văn 9 tập 1

Xem xét hoàn cảnh của chú bé A-li-ô-sa, ba đứa con của đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp và quan hệ giữa hai gia đình để lí giải vì sao tình bạn tuổi thơ trong trắng ấy để lại ấn tượng sâu sắc cho nhà văn, khiến hơn ba mươi năm sau ông vẫn còn như in và thuật lại hết sức xúc động.

Trả lời:

– Ông bà ngoại của A-li-ô-sa là hàng xóm với đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp, nhưng hai gia đình thuộc những thành phần xã hội khác nhau, một bên là dân thường, một bên là quan chức giàu sang, nên Ốp-xi-an-ni-cốp không cho những đứa con của mình chơi với A-li-ô-sa (“Đứa nào gọi nó sang?”, “Cấm không được đến nhà tao!”).

– Do sự tình cờ, A-li-ô-sa góp sức cứu đứa nhỏ bị rơi xuống giếng, nên ba đứa trẻ nhà Ốp-xi-an-ni-cốp biết được tấm lòng của A-li-ô-sa và rủ A-li-ô-sa sang chơi.

– A-li-ô-sa mất bố, mẹ lại đi lấy chồng khác, có mẹ mà như không, lại thường bị ông ngoại đánh đòn, chỉ có bà ngoại là người hiền hậu. Qua trò chuyện, A-li-ô-sa biết mấy đứa bạn mới quen kia tuy sống trong cảnh giàu sang, nhưng cũng chẳng sung sướng gì, mẹ chết, sống với dì ghẻ, lại cũng bị bố cấm đoán, đánh đòn…

– Hoàn cảnh sống thiếu tình thương giống nhau khiến A-li-ô-sa thân thiết với mấy đứa trẻ kia và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Go-rơ-ki khiến mấy chục năm sau ông vẫn còn nhớ như in và kể lại hết sức xúc động.


3. Câu 3 trang 233 sgk Ngữ văn 9 tập 1

Tìm trong bài văn rồi phân tích, bình luận một số hình ảnh của ba đứa trẻ hàng xóm qua sự cảm nhận tinh tế của A-li-ô-sa.

Trả lời:

– Trước khi quen thân, nhìn sang hàng xóm, A-li-ô-sa chỉ biết: “Ba đứa cùng mặc áo cánh và quần dài màu xám, cùng đội mũ như nhau. Chúng có khuôn mặt tròn, mắt xám và giống nhau đến nỗi tôi chỉ có thể phân biệt được chúng theo tầm vóc”.

– Khi mấy đứa trẻ kể chuyện mẹ chết, chỉ còn dì ghẻ mà chúng gọi là “mẹ khác” rồi lặng đi, Go-rơ-ki kể: “Chúng ngồi sát vào nhau giống như những chú gà con”. So sánh chính xác khiến ta liên tưởng cảnh lũ gà con sợ hãi co cụm vào nhau khi nhìn thấy diều hâu, đồng thời toát lên sự thông cảm của A-li-ô-sa với nỗi bất hạnh của các bạn nhỏ.

– Khi đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp bất chợt xuất hiện, mắng: “Đứa nào gọi nó sang?”, Go-rơ-ki viết: “Tức thì cả mấy đứa trẻ lặng lẽ bước ra khỏi chiếc xe và đi vào nhà, khiến tôi lại nghĩ đến những con ngỗng ngoan ngoãn”. Đây là lần thứ hai nhà văn dùng hình tượng so sánh này. So sánh chính xác vừa thể hiện dáng dấp bên ngoài của ba đứa trẻ, vừa thể hiện thế giới nội tâm của chúng. Chúng bị bố áp chế, lẳng lặng vào nhà, chẳng dám hé răng. Tác giả còn kể ở đoạn dưới: “… tôi nhớ lại thì không bao giờ chúng tôi nói một lời nào về bố và về dì ghẻ”. Một lần nữa A-li-ô-sa thông cảm với cuộc sống thiếu tình thương của các bạn nhỏ.


4. Câu 4 trang 233 sgk Ngữ văn 9 tập 1

Chuyện đời thường và truyện cổ tích được lồng vào nhau trong nghệ thuật kể chuyện của Go-rơ-ki như thế nào qua các chi tiết liên quan đến những người mẹ và những người bà trong bài văn này?

Trả lời:

Chuyện đời thường và truyện cổ tích:

– Chuyện đời thường và truyện cổ tích lồng vào nhau qua chi tiết dì ghẻ. Mấy đứa trẻ hàng xóm vừa nhắc đến chuyện dì ghẻ mà chúng gọi là “mẹ khác”, A-li-ô-sa liên tưởng ngay đến nhân vật mụ dì ghẻ độc ác trong các truyện cổ tích.

– Chuyện đời thường và chuyện cố tích lồng vào nhau qua chi tiết người “mẹ thật”: “Mẹ thật của các cậu thế nào rồi cũng sẽ về, rồi các cậu…”

– “Chết rồi cơ mày về làm sao được…”. A-li-ô-sa như lạc ngay vào ông khí truyện cổ tích, nói với chính bản thân mình: “Không được ư? Trời ơi, biết bao nhiêu lần những người chết, thậm chí đã bị xả ra từng mảnh mà chỉ cần vẩy cho ít nước phép là sống lại; có biết bao nhiêu người chết mà không phải là chết thật, vì phép của bọn phù thủy”.

– Chuyện đời thường và chuyện cổ tích lồng vào nhau qua hình ảnh người bà nhân hậu. Ta biết bà ngoại của A-li-ô-sa là người rất nhân hậu.

Trong bài văn này, mỗi lần A-li-ô-sa nhắc đến bà ngoại là để nói bà thường kể chuyện cổ tích cho chú nghe và bây giờ chú kể lại cho các bạn, chỗ nào quên lại chạy về hỏi bà. Khi đứa lớn con đại tá Ôp-xi-an-ni-cốp khái quát: “Có lẽ tất cả các bà đều tốt, bà mình trước cũng rất tốt…” thì nước mắt chúng ta như hiện lên hình ảnh các nhân vật bà nội, bà ngoại trong truyện cổ tích rồi. Nhất là thằng bé “thường nói một cách buồn bã: ngày trước, trước kia, đã có thời… dường như nó đã sống trên trái đất: này một trăm năm chứ không phải mười một năm”

– Không thấy A-li-ô-sa nhắc đến tên mấy đứa bạn. Chắc khi chơi thân với nhau, thế nào chúng cũng hỏi tên nhau; A-li-ô-sa còn biết thằng lớn mười một tuổi cơ mà! Hay chuyện xảy ra mấy chục năm rồi, Go-rơ-ki: không còn nhớ tên chúng nữa? Song, có lẽ nhà văn chủ tâm không nhắc tên những đứa trẻ kia, như thế câu chuyện tình bạn của bọn trẻ sông thiếu tình thương mang ý nghĩa khái quát hơn và đậm màu sắc cổ tích nhiều hơn.


CÁC BÀI VĂN HAY


Bài trước:

Bài tiếp theo:


Xem thêm:

Trên đây là phần Hướng dẫn Soạn bài Những đứa trẻ sgk Ngữ văn 9 tập 1 đầy đủ và ngắn gọn nhất. Chúc các bạn làm bài Ngữ văn tốt!


“Bài tập nào khó đã có giaibaisgk.com